GIỚI THIỆU
LUẬT NHÂN QUẢ không phải là là một danh từ xa lạ gì đối với những người tu học, hoặc hay tìm hiểu về Phật Pháp. Xong thật ra rất ít người đào sâu nghiên cứu để hiểu thấu đáo Nhân quả, đa số chỉ dừng lại ở vài câu đại khái “gieo nhân nào, gặt quả nấy”, “ ở hiền gặp lành” …
Hiểu như vậy là đủ chăng ? Không !
Vì nếu chỉ dừng lại ở mức hiểu sơ xài như vậy, sẽ thấy trong cuộc sống nhiều việc không có ăn khớp nhân quả gì cả, thấy đầy người tội lỗi đầy mình mà giàu sang phú quý, đầy đứa trẻ vừa mới sinh ra, đã làm tội lỗi gì đâu mà bị cha mẹ bỏ rơi, bị chết thảm, hay gặp bệnh hiểm nghèo khổ sở.v.v… nhiều lắm. Họ thấy vậy, không hiểu nguyên lý ra sao, lại than “ trời cao không có mắt”, rồi lại hỏi “ luật nhân quả ở đâu ? công bằng ở đâu?”
Thực chất luật nhân quả không có sai, cái sai là ở người ta biết quá ít về luật Nhân quả mà đã tự cho mình biết thế đủ rồi, không chịu bỏ thời gian, công sức tìm tòi nghiên cứu cho thông suốt. Mặc dù Nhân quả chính là nguồn gốc vận hành vạn vật, là quyền quyết định mọi thành bại, mọi vui buồn sướng khổ của cuộc đời con người, mức độ hệ trọng là cao nhất.
Ấy thế mà đa số mọi người hết sức thờ ơ với việc tìm hiểu, nghiên cứu, nghiền ngẫm Nhân quả. Ngược lại, họ sẵn lòng tiêu tốn rất nhiều thời gian để xem các gameshow, các chương trình nhảm nhỉ, tiêu khiển, giết thời gian trong nhiều trò vô bổ khác. Năm này tháng khác trôi qua vô nghĩa thì không tiếc, nhưng nói bỏ vài tiếng, vài ngày ra đọc các sách nhân quả thì than dài, than bận không có thời gian…
Đến khi chuyện đau khổ ập đến thì than trời trách người, khổ không biết vì đâu mà khổ, đâu biết đó chính là vì từ trước, ngày ngày vẫn “tự bện dây thừng treo cổ cho mình” mà không hay biết.
Đến khi Nghiệp quả đã chín muồi, thống khổ bao vây mới chạy đi tìm các cao tăng, minh sư, thiện tri thức để hỏi cách hóa giải. Nhưng mà đâu phải việc nào cũng có cách hóa giải, rất nhiều việc đáng tiếc đã xảy đến, thì … muộn rồi! Chỉ còn cách cố gắng mà chịu đựng thôi chứ không có cách gì cứu được.
Vì lẽ đó, nếu là một người có trí tuệ, nhận ra được mức độ quan trọng – không, phải nói là hệ trọng của việc nghiên cứu để hiểu sâu luật Nhân quả, và muốn tìm một tài liệu, một nguồn nào đó để có thể tìm hiểu, nghiền ngẫm sâu xa ngọn ngành, chi li về nhân quả, để tự mình xây dựng một “ngọn hải đăng trí tuệ” cho chính mình, tự mình soi lối cho mình đi về con đường sáng, tự mình sắp xếp an bài cho số phận của chính mình thông qua những hiểu biết về Nhân quả.
Nếu bạn muốn như vậy, Quang Tử rất hân hạnh được giới thiệu với bạn :
Thứ 1, đó một tài liệu, hoặc gọi là một câu chuyện cũng được : “42 ÁN XỬ CỦA DIÊM VƯƠNG” phân tích chi tiết về cách xét xử nhân quả tội phước của Diêm Vương với hàng chục đối tượng khác nhau.
Khi cùng lúc xem xét nhân quả cả đời của rất nhiều người như vậy, ta sẽ có được một cái nhìn toàn cảnh về “bức tranh nhân quả” với mức độ chi tiết nhất có thể. Tuy dài, nhưng nó rất quan trọng, không thể bỏ qua khi nghiên cứu nhân quả.
HỒI DƯƠNG NHÂN QUẢ
Nguyên tác : Lâm Tự Kì
Hiệu đính : Quang Tử
BẮT NHẦM VÀO CHỐN ÂM TY
Triều nhà Thanh, tỉnh Hồ Quảng, Trung Quốc, tại huyện Hiếu Cảm, làng Lê Thọ có một người học nho, họ Lâm tên Tự Kỳ, thường ngày ăn chay không sát sinh, cũng thường tụng kinh Kim Cang, song không hiểu nghĩa lý trong kinh cho thấu đáo. Tính tình công bình hiền hậu. Xóm làng đều kính trọng Tự Kì.
Nhằm bữa mồng hai tháng ba, năm Mậu Thìn, triều vua Gia Khánh, Lâm Tự Kỳ dậy sớm thắp hương cúng lạy. Bất ngờ có mấy con quỷ từ đâu hiện đến, vật Tự Kỳ mà bắt hồn dẫn đi, rồi đem đến miếu ông Thổ Địa sở tại xem xét. Qua bữa sau giải tới miếu Thành Hoàng ( là ông thần đình sở tại ) xem xét nữa, nội ngày ấy giải đến đền vua Tây Nhạc, là chỗ tụ hội các hồn mới chết, có khoảng ba bốn trăm hồn, vua Tây Nhạc phê nhận các tờ rồi giải qua Đô Thống Ti xử đoán.
Bữa thứ ba mới tới Đô Thống Ti, Lâm Tự Kỳ thấy các hồn đều mang gông xiềng, áo quần rách rưới. Quỷ sứ lùa hết vào dinh Trưởng án Phán quan ( Phán quan chuyên thẩm xét các án ) mà phát thẻ bài cho mỗi hồn đeo trên cổ, có đề phạm những tội gì. Tới phiên kêu tên Lăng Sĩ Kỳ ở làng Lý Thọ, huyện Hiếu Cảm đeo thẻ bài bốn chữ ” Ác phạm ngưu đồ ” ( nghĩa là tên tội phạm mổ trâu ), quỷ dẫn hồn Lâm Tự Kỳ vào điều tra. Phán quan xem thấy trên đầu Lâm Tự Kỳ có chiếu hào quang lấp lánh.
Phán quan hỏi :
– Ngươi làm nghề đồ tể bấy lâu, giết bao nhiêu trâu ?
Tự Kỳ bẩm rằng :
– Mô Phật, tôi trước giờ không giết con trâu nào hết.
– Ngươi không giết trâu sao đeo thẻ bài có bốn chữ ‘ác phạm ngưu đồ’ ? Mà ngươi phải ở làng Lý Thọ không ?
-Tôi ở làng Lê Thọ, chứ không phải làng Lý Thọ
– Ngươi bao nhiêu tuổi ?
– Tôi đã bốn mươi mốt tuổi.
– Sinh tháng ngày giờ nào ?
– Sinh nhằm giờ Thìn, mồng ba tháng giêng.
Phán quan tra bộ rồi nói :
– Lâm Tự Kỳ ở làng Lê Thọ số tới 78 tuổi, cớ nào bắt tới làm chi! Vả lại, họ tên trong bộ tuy trùng tiếng trên thẻ bài, mà chữ không trùng, tên làng cũng đồng âm mà chữ viết không giống. Huống chi ngày sanh tháng đẻ khác nhau. Nhà ngươi là Lâm Tự Kỳ ở làng Lê Thọ, còn ta sai bắt tên đồ tể là Lăng Sỉ Kỳ ở làng Lý Thọ kìa. Bởi nó mới 36 tuổi, làm nghề giết trâu chó khoảng vài trăm con. Còn nhiều tội khác kể không xiết, nên đáng đoạ tam đồ, là hành hình ba cách : ghìm nước, đốt nấu dầu, đâm chém bằm chặt, kêu là thuỷ đồ, hoả đồ, đao đồ. Còn ngươi có chiếu hào quang trên đầu, chắc là ngươi hay làm việc thiện, hay tụng kinh kệ.
– Tôi đời nay không làm điều chi thiện lắm, song chẳng dám làm việc ác. Từ mười bảy tuổi ăn chay, đến nay đã hai mươi mấy năm, thường ngày dầu có việc gì gấp lắm, cũng lo tụng cho xong một cuốn kinh Kim Cang, và niệm Phật A Di Đà vài trăm câu, rồi mới làm công việc.
– Như vậy thì là người thiện, quỷ sứ bắt lầm một người thường cũng có tội, huống chi là người thiện! Vả lại Thổ địa sở tại, với các vị thần xem xét đều sai lầm, cũng có lỗi nữa, việc này hệ trọng, chẳng phải nhỏ đâu! Vậy thời thiện nhân hãy ngồi đỡ mái tây, đợi tôi tâu cho vua hay, rồi sẽ đưa về dương thế ( Nghĩa là hoàn hồn sống lại ).
Rồi có hai người đồng tử mặc áo xanh dắt hồn Tự Kỳ đến nhà khách mái tây. Thấy trên tấm biển đề bốn chữ ” Tây Phương chú tiết “, lại có đối liễn cột cái như vậy :
‘Đại trượng phu, thủ bất khai sanh tử lộ.
Kỳ nam tử, song mi số phá lợi danh quan’
Khi ấy, Tự Kỳ vào trong nhà khách, thấy có ba người ; một gái, hai trai, đều ăn mặc theo kiểu đạo sĩ, tay cầm xâu chuỗi lần, cùng đứng dậy, chắp tay mời ngồi. Đồng tử nói :
– Thiện sĩ ngồi chờ một chút, đợi vua ngự sẽ mời.
Lát sau nghe ba tiếng trống mở cửa đền báo Diêm Vương đã đến ( Diêm Vương có 10 vị, vị này là Tần Quảng Vương – cai quản Điện thứ nhất). Đồng tử đến mời Tự Kỳ đến cửa đền, thấy trên cửa ngõ có treo tấm biển ngang, đề mười một chữ :
‘Kinh châu đẳng xứ sanh hồn thiện ác đô thống ti’.
( Sở đô thống ti coi xử hồn thiện ác Kinh châu. )
Cửa ngõ đề đôi liễng rằng :
‘Âm dương bổn vô dị lý. Cảm ứng xát hữu minh trưng.’
Lúc ấy, các hồn đều quì dưới thềm. Phán quan thu giấy tờ tâu rõ sự bắt nhầm v.v… Tần Quảng vương xem rồi, phán rằng :
– Người này quả thật hiền lành, lại ăn chay tụng kinh, vả lại chưa tới số, đáng cho hòan hồn. Còn 4 quỷ Dạ xoa bắt lầm, xử trượng mỗi tên tám chục roi, rồi giam lại sẽ tra án. Lỗi Thổ Địa tại làng chỉ đi bắt nhầm, ta cũng dâng sớ cho Ngọc Hoàng phạt tội.
Rồi hỏi Tự Kỳ rằng :
– Người bấy lâu tụng Kinh gì ?
– Dạ tụng kinh Kim Cang.
– Hay lắm! Mà tụng bao nhiêu cuốn ?
– Tôi không nhớ, song tôi ăn chay hai mấy năm, còn tụng kinh mới 7 năm.
Vua truyền Phán quan tra coi tụng được bao nhiêu cuốn. Phán quan giở bộ đếm được 3503 cuốn.
Vua phán rằng :
– Số ngươi còn nhiều, ước tụng cũng dư một tạng (một tạng là 5848 cuốn). Mà ngươi có rõ nghĩa lý trong kinh chăng ?
– Tôi không hiểu được hết.
– Tụng kinh đức lường khôn xiết. Còn như tụng mà không hiểu, thì công đức mười phần, được có ba phần.
HỎI ĐÁP VỚI DIÊM VƯƠNG
Lâm Tự Kỳ nhân thấy cơ hội có thể giải đáp các khúc mắc của mình bấy lâu. liền đánh bạo hỏi Tần Quảng Vương:
– Thưa ngài, người thuê người khác tụng kinh thế cho mình có được phước chăng ?
– Thuê người tụng thì được một phần bẩy phước đức. Nhưng mà còn hơn kẻ không tụng. Khi trước ngươi tụng kinh Kim Cang, chưa được chuẩn mực. Lúc đương tụng trong lòng không thanh tịnh, hay suy nghĩ mông lung, không tập trung. Ấy là miệng tụng lấy có, mười phần công đức chỉ được hai ba phần. Vậy từ nay về sau phải cố gắng suy cho thông nghĩa lý, miệng niệm, lòng tưởng. Gặp ai cũng giảng nghĩa lí vi diệu trong kinh Kim Cang, rồi cầu Vãng sinh, thì mới có mong về Tây phương được.
Khi ấy, Phán quan tâu :
– Người này lìa thế gian đã mấy ngày, trái tim phải lạnh, chắc trong nhà liệm rồi, e khó sống lại. Nếu Ngọc Đế tra ra, ắt không tiện lắm. Xin vương gia cho hoàn hồn lập tức.
Vua phán rằng :
– Không hề chi! Ngày mồng 2, 12, 22, ngày mồng 5, 15, 25, mồng 8, 18, 28 đều là ngày lệ xử các phạm hồn tại đây. Nay là ngày mồng 8, là đến kỳ xử án. Ta thấy người đời không tin nhân quả báo ứng, dễ khinh lời thánh, chê bai Tam Bảo ( là Phật, Pháp, Tăng ) các tội ấy rất nhiều. Nay giữ thiện sĩ một ngày, xem ta xử như thế nào, mai mốt sống lại, thuật chuyện cho người đời nghe. Mau cho thiện sĩ uống một ngụm thuốc Noãn Tâm, thì trái tim ấm tới bảy ngày. Phàm các hồn đến cửa thứ nhất này, quá bảy ngày mới giải qua chín vua Thập điện, thì sống lại không được.
Tự Kỳ tâu :
– Tâu Vương gia, vì cớ nào phía tây có nhà khách gọi là : Tây phương chú tiết, người phàm đến đó được chăng ?
– Không đến được. Phàm người chết, đem hồn tới vua Tây Nhạc xem xét, phê rồi mới giải đến đây. Trẫm xét rõ đáng đầu thai ngay mới phê vào giấy, rồi gửi qua vua Đông Nhạc xem rõ mới phát một tờ cho đi đầu thai, hồn ấy mới được đầu thai. Còn trừ những ai thuần thiện không ác, hoặc ăn chay tụng kinh chân tu, thì Trẫm không được phép xử đoán, nên cho ở tạm mái tây, đợi Trẫm viết điệp triệu Kim đồng Ngọc nữ, đem tàng phương báu, rước hồn lên Thiên giới.
– Như thế nào gọi là Thiên đường ?
– Cõi thiên đường sáng láng rộng ngay. Nếu lòng ai sáng láng, ăn ở rộng rãi, ngay thẳng, thì hồn lên Thiên đường.
– Còn địa ngục thì như thế nào ?
– Chốn địa ngục thấp bẩn đen tối. Nếu ai lòng hèn hạ, nhơ nhớp, xấu xa, mê muội, thì hồn sa địa ngục
– Những hồn lên Thiên đường hoặc sa Địa ngục có đầu thai nữa chăng ?
– Đã lên thiên đường, hoặc sa xuống địa ngục, rất lâu mới đi đầu thai, dù lâu nhưng đến khi hết phước hay mãn tội thì vẫn luân hồi, chỉ trừ những bậc chứng Thánh quả Giải thoát như A la hán, Đức Phật thì mới chấm dứt luân hồi.
– Như vậy những người nào sẽ đầu thai ngay ?
– Trong một ngàn người, may một hai người lên Thiên đường, khoảng vài trăm người bị vào địa ngục. Còn bao nhiêu đều đầu thai hết. Bởi vì ai cả đời làm nhiều điều lành, ít phạm điều ác, mới được lên Thiên đường. Nếu ai làm nhiều điều ác, hiếm khi làm điều thiện, mới bị giam địa ngục. Còn ai không thiện không ác, hoặc nửa nọ nửa kia đều phải đầu thai.
– Hoặc kẻ trước làm thiện, sau làm ác, hoặc người trước làm ác sau làm thiện, có kẻ ác nhiều thiện ít, kẻ thì ác ít thiện nhiều, Vương gia sẽ xử ra sao ?
– Trước làm thiện, sau làm ác, thì những điều thiện bị giảm một nửa phước, rồi tính tội những điều ác. Trước làm ác, sau hối cải làm thiện, thì những điều ác được giảm một nửa tội, còn lại tính phước của những điều thiện. Còn ác nhiều thiện ít hay thiện nhiều ác ít, thì đem cấn trừ cho nhau, còn dư cái nào thì hưởng cái đấy. Vì sao như thế ? Bởi người làm thiện chẳng trọn hết kiếp lại quay sang làm ác, thì lẽ trời không dung, cho nên tính giảm hết phân nửa việc thiện. Còn kẻ ăn năn sửa lỗi, cải tà quy chánh, thì Ngọc Đế thương lắm, nên giảm phân nửa việc ác.
– Tôi thường thấy người làm thiện mà bị nghèo nàn. Còn kẻ ác lại được giàu sang. Trời báo ứng không rõ ràng, nên hiểu chẳng thấu rõ!
– Người thiện mắc hoạ, e là ngoài mặt thiện mà lòng chẳng thiện. Kẻ ác mà được phước, e là ngoài mặt ác mà trong lòng không ác. Thượng đế trọng thiệt tình trong tâm, chứ không cần cái mặt bề ngoài. Bởi làm mặt vẻ bề ngoài thì dối người được, chứ dối trời sao được. Xưa nay quả báo chắc chắn không nhầm. Song việc nhân quả báo ứng có nhiều cách. Có khi thiện ác kiếp trước, kiếp nay mới trả. Thiện ác đời này, kiếp sau mới trả.
Hoặc đời nào trả theo đời ấy, có khi mới làm ác mà quả báo trả lập tức nhãn tiền. Còn như người nói ‘Ác được phước, lành mắc hoạ’ là bởi làm ác đời này chưa bao nhiêu mà mắc hưởng phước từ tiền kiếp, hay làm thiện đời nay chưa bao nhiêu mà mắc trả quả báo từ kiếp trước, luân hồi che lấp, làm sao người hiểu thấu.
Bởi vì phước tội kiếp trước của chúng nó, thiện cho hưởng phước, ác cho gặp hoạ, cho hết nghiệp kiếp trước. Rồi mới xét thiện ác đời nay thiệt giả, nhiều ít, lớn nhỏ, trừ cấn, hoặc trả lại đời nay, hoặc để dành kiếp sau hoặc trả cho con cháu nó.
Việc báo ứng theo luật âm, hoặc sớm hoặc muộn, hoặc kín đáo, hoặc rõ ràng, nhưng chắc chắn không sai một mảy may. Cái lý nhân quả nhiệm mầu, phức tạp, con người làm sao hiểu cho hết ?
– Thưa Vương gia, sao gọi là đời nay mà chịu trả nhân quả kiếp trước ?
– Như trẻ con mà bị chết đuối, lửa cháy, bị đâm chém, bị tật bệnh, hoặc cọp ăn, rắn cắn, ngựa đạp, xe cán, trâu húc, hoặc các việc rủi ro v.v… thì đời nay nó đã biết làm điều chi ác đâu, mà bị trả quả, đó là do vì trả quả kiếp trước. Lại còn học trò mới đôi mươi, mà đi thi đỗ, hoặc là con dòng cháu dõi mà được thế được chức, hoặc hưởng phúc đức tổ tiên, hoặc các việc may mắn v.v… thì đời nay tuy chưa làm lành mà lấy chi được hưởng phước, ấy lại là do hưởng phước từ việc thiện kiếp trước. Coi đó mà suy, thì hiểu thiện mà mắc hoạ, ác mà được phước là tại lí do ấy.
– Bắt người thiện đi đầu thai, thì e người thiện thiệt thòi lắm! Còn kẻ ác cũng được đầu thai, thì kẻ ác chẳng phải rất may sao ? Sao lẽ trời không phân biệt ?
– Không phải vậy đâu! Cho người lành đầu thai hưởng giàu sang vinh hiển, là Thiên đường tại cõi đời, sao gọi chịu khổ ? Còn cho kẻ ác đầu thai, chịu khốn khó, hèn hạ, tai nạn, cũng như địa ngục tại dương gian, sao gọi rất may ? Huống chi người thiện hưởng cảnh thuận, nếu tu nhơn tích đức thêm, thì sẽ lên Thiên đường. Nhưng nếu hưởng phước giàu sang mà làm ác quá, trừ hết phước vẫn còn dư tội thì cũng phải chịu tội như thường.
Nếu kẻ ác bị nghịch cảnh ngang trái mà biết ăn năn vì lỗi trước, lo tu đền tội, thì cũng sẽ hết khổ, bằng không tu thì đoạ vào các Địa ngục, muôn trùng khủng khiếp.
Coi đó thì đủ biết sự hoạ phước tuy là trời định, song lòng người thiện ác sẽ thay đổi được, việc may rủi tuy ở số phận an bài khi mới sinh, nhưng ngưởi làm thiện làm ác thì số mạng cũng sắp lại hết.
– Như vậy Thiên đường- Địa ngục, siêu-đoạ là tại tâm người tự do làm chủ. Nếu tôi là người không làm chủ cái tâm tôi, ấy là : Thiên đường kia, có đường chẳng bước ; Địa ngục kia không cửa lại tìm !
– Phải, xem ra ngươi là người sẽ lên Thiên đường, nên tâm mau tỉnh ngộ như vậy.
3 HỒN ĐƯỢC SINH THIÊN
Nói chuyện xong rồi, Phán quan tâu :
– Các phạm hồn tề tựu đã đông đủ chờ tra xét.
Vua Tần Quảng Vương xem lời phê của vua Tây Nhạc rằng : “Bọn Từ Húc, cộng 752 hồn, đang đầu thai.”
Vua đều phê cho chúng nó được giải qua vua Đông Nhạc lãnh tờ đầu thai hưởng phước. Tự Kì coi qua lời phê thiện lành của ba hồn được sinh lên Thiên Giới, kể ra như sau :
1) Một nàng thiện nữ là Liễu Thị, chí hiếu với mẹ chồng nuôi con đau ốm cực khổ, lại hay bố thí, cho kẻ tù ăn, xuất tiền sửa cầu đắp đường, làm nhiều việc lành, không nói một lời tổn đức, chẳng làm một điều chi hung dữ. Lại ăn thập trai đã mười năm và hay tụng kinh Phổ Môn nữa.
2) Một người thiện dân là Dương Thăng, hiếu thảo cha mẹ, thương anh em chị em, cung kính kẻ lớn, ăn ở nhân từ hào phóng, hay thương người. Không ăn gian một đồng tiền, chẳng tham lam ngân lượng bạc. Cứu người ngặt nghèo, giúp người gấp rút. Vài trăm người nhờ ơn cứu giúp, mấy chục nhà nhờ tay anh cứu sống. Công ơn bố thí lớn lắm.
3) Một vị thiện sĩ là Trương Quan Diện ở huyện Võ Lăng, tuy nhà nghèo, mà thủ phận, cực khổ mà bền lòng. Viết sách vài trăm cuốn, đều nói chuyện khuyên đời. Dạy học trò giữ nhân nghĩa làm đầu, kết bạn hữu chính trực, uy tín làm gốc. Tuy chẳng an chay mà tâm lành như ăn chay. Tuy chẳng tụng Kinh, mà lời hiền như câu kinh tiếng kệ, tâm địa trong sạch, lời nói chẳng hung ác.
Ba vị ấy đều đáng sinh Thiên, được hoá thân bậc thượng.
Vua xem lời phê của vua Tây nhạc rồi, phán rằng :
– Mau mời Kim đồng Ngọc nữ đem tàng phướn báu, xuống rước ba hồn lên Thiên Giới ( Kim đồng rước hồn nam, Ngọc nữ rước hồn nữ ), còn tại nơi này, phải nổi trống trổi nhạc, thắp hương, rải hoa mà đưa ba vị ấy. Còn các hồn phạm tội, chiếu y theo số thứ tự trong đinh bài, dẫn vào Trẫm xử.
NHỮNG BẢN ÁN
Án thứ 1
Phán quan tâu rằng :
– Hồn phạm số thứ nhất là họ Dư, ở huyện Huỳnh châu, tú tài thi đỗ cử nhân, hai khoá đậu tiến sĩ, được bổ nhiệm chức tri huyện huyện Tú Thuỷ, triều Thanh, lên lần tới chức Chủ sự sở Hình bộ, sau làm chức Lang trung sở Công bộ ; lại sang qua chức Thị lang sở Hộ bộ, rồi qua sở Lại bộ được năm tháng mới chết. Tra án tên phạm này, từ ngày đỗ tú tài tới khi làm quan huyện, không làm một việc lành nào, đến làm sở Hình bộ, giết oan 13 mạng. Làm sở Công bộ, ăn hối lộ rất nhiều. Làm sở Hộ bộ, cũng ăn hối lộ nhiều bạc lắm. Sau lên sở Lại bộ càng táo tợn hơn nữa, bán chức quan mà ăn, miễn đầy túi mình, không cần biết ai khóc ai cười. Tội này đáng đoạ Địa ngục A Tì, muôn triệu năm chưa được đầu thai.
Họ Dư đứng dậy bái và tâu rằng :
– Tôi đã làm quan lớn, xin Vương gia châm chế cho tôi chút thể diện.
Vua nạt và phán rằng :
– Khốn kiếp! Dương gian trọng người chức lớn, tại Âm phủ trọng đức chớ chẳng trọng quan tước quèn. Kẻ đức hạnh lớn, dầu ăn mày Trẫm cũng kính nể. Nay ngươi còn ỷ thế làm quan mà cự với Trẫm sao ? Quỷ Dạ xa đâu, lấy chùy sắt mà đập đứa này cho chí tử.
– Tôi có ăn chay thập trai, tụng kinh Chuẩn Đề.
– Ngươi ăn chay thập trai niệm chú Chuẩn đề, mà cầu công danh bền bỉ. Ngươi chưa có hiểu nghĩa hai chữ Chuẩn Đề. Phàm người muốn cầu giàu sang công danh, hoặc cầu con, cầu trường thọ, thì phải chừa mười điều ác là : bất kính trời đất, bất kính Tam Bảo, chẳng hiếu thảo cha mẹ, chẳng thuận anh em, chẳng trung vua chủ, chẳng tin công lí, chẳng lễ nghi, chẳng hành xử theo lẽ phải, chẳng thanh liêm trong sạch, chẳng biết hổ thẹn. Đã chừa mười điều ác ấy, lại còn ở theo luật Công quá cách, mỗi ngày tụng kinh cho nhớ mà sửa lòng, không dám thiếu một bữa, chẳng dám nghĩ đến một điều trái lẽ. Như vậy thì ăn thập trai, niệm chú Chuẩn Đề mới cảm động lòng trời.
Còn ngươi bấy lâu làm ác nhiều điều, cứ bia tiếng Chuẩn Đề, mà trông mong hưởng phước, là theo ngọn mà bỏ gốc, mà cảm động vào đâu ? Nhằm ngày thập trai, ngươi lỡ quên ăn mặn, định bữa khác ăn chay mà trừ, hoặc đám tiệc người ta ép, thì ngươi bỏ ngày chay mà ăn mặn. Theo phép đã ăn chay, thì không lẽ ăn bữa khác mà thế ngày quên được sao? Cũng không được xả bỏ ngày chay mà ăn mặn. Nếu thế hoặc xả bỏ thì không phải là lòng thành, còn kể làm chi nữa ? Ăn chay thập trai như ngươi đó, công đức gì? Đừng cãi nhiều lời! Mau dẫn nó qua A Tì địa ngục.
Án thứ 2
Phán quan đọc án :
– Kế đến số thứ nhì là họ Tần, ở huyện Hướng Dương, Tú tài thi đậu tiến sĩ, làm quan tri phủ phủ Thái Nguyên, ba năm mới chết. Phạm hồn nầy khinh rẻ trời đất, không kể mạng người, trấn nhiệm ba năm, ăn hối lộ tới mười mấy vạn lượng, không lo việc nước. Đời nay ngươi được thi đỗ làm quan, là vì kiếp trước là thầy chùa, có công dọn đường núi và đắp lề vài trăm trượng ( vài ngàn thước mộc ). Nào hay đời nay thay lòng đổi dạ như thế!
Họ Tần tâu :
– Tôi khi sống mê muội không ngờ có việc Địa phủ xử tội như vậy. Nay mới ăn năn tỉnh lại. Trong nhà tôi còn vài vạn lượng bạc. Nay thấy đền của Ngài hư cũ, dưới đền nhiều hồn đói rách. Tôi tình nguyện dâng hết bạc mà tu bổ đền vua, còn dư thì bố thí cho hồn đói mà đền tội, chẳng biết ý vua định thế nào ?
Tần Quảng Vương phán :
– Nay ngươi ăn năn đã muộn quá! Đền Âm phủ của Trẫm, không lẽ lại dùng tiền hối lộ của ngươi mà tu bổ sao ? Còn ngạ quỷ ( ma đói ) là tại chúng nó khi sống làm ác nay phải chịu khổ, ai cần bố thí cho mệt công. Huống chi lúc ngươi còn sống, hay kiếm mưu nầy chước kia mà thu tiền của cho nhiều, nào có thương ai đói mà bố thí. Phải chi ngươi làm phước cho sớm, thì đã tiêu hết tội rồi, đâu có ngày nay phải chịu tội thế này. Mà lại vài vạn lượng đó, có phải của ngươi sao ? Mười mấy năm trước, Trẫm đã cho các oan gia chủ nợ đầu thai làm bốn trai hai gái của ngươi, ngươi chết chưa đầy hai tháng, chúng nó ăn chơi đàng điếm bài bạc phá hết sạch gia sản rồi ; ít lâu đây con trai ngươi sẽ đi trộm cướp, con gái ngươi sẽ vào lầu xanh, làm ô nhục danh tiếng tổ tông! Còn ngươi, tống vào Địa ngục.
Họ Tần nghe qua động lòng khóc ngất, tiếng rống ồ ồ! Quỷ sứ lấy chùy đồng đập đầu, té xỉu tại đất. Giây phút tỉnh hồn, bị dẫn qua Địa ngục.
Án thứ 3
Phán quan truyền dẫn hồn kế đó vào nữa, đọc án rằng :
– Phạm hồn họ Triệu ở huyện Quỳnh Châu, trước làm Thư lại, sau lên chức Huyện thừa tại huyện Vĩnh Bình mới chết. Hồi 18 tuổi làm ác rất nhiều. Đến khi làm quan, ăn tiền của người ta, hại mạng dân cũng nhiều. Sai thu thuế, tra khảo dân nghèo. Lo vừa ý quan trên, khắc bạc dân dưới. Đáng ghét hai khoản này : đi xét án nhân mạng, chỉ vì tiền mà làm đổi trắng thay đen, nghĩa là lo tiền thì quả thật bị giết cũng gọi là tự vẫn, không lo tiền thì tự vẫn cũng vu là giết. Còn xứ điền thổ hễ ai lo nhiều bạc thì được ruộng đất. Nên trong túi tham, đựng vài ngàn lựơng vàng. Bởi thế, khi còn sống đã phạt tuyệt tự, mà chưa hết tội. Nay trước quăng vào vạc dầu, mà rửa hờn cho dân, rồi sẽ giam vào địa ngục A Tỳ muôn triệu năm không tính đến chuyện đầu thai.
Họ Triệu tâu :
– Lời xưa nói vì nghèo mới cố học làm quan. Như vậy ăn của dân cũng là phải. Nếu cho sự ăn hối lộ mà là tội, thì kẻ làm quan lấy chi mà nuôi gia quyến và đãi quan khách, của đâu mà đi lễ quan trên ?
Tần Quảng Vương phán :
– Như minh oan cho người, hoặc lấy lẽ ngay mà xử cho đúng phép công minh theo luật. Kẻ khỏi hàm oan, người ngay khỏi bị hại, người ta cám ơn vì xử công minh, nếu chúng nó giàu có hậu tạ, vui lòng mà cho tới bạc ngàn, mình cũng không lỗi. Chứ như không lợi ích cho người chút nào, lập kế bày mưu mà ăn tiền, thì oan ức cho người ngay lắm, tội biết bao nhiêu mà kể. Ngươi nghĩ thử, những tiền của ngươi ăn đó, có phải nghĩa công bình chăng ? Người ta có vui lòng tình nguyện đền ơn cho ngươi chăng. Có đáng công ơn theo lẽ minh oan, tự nhiên mà người cho chăng ? Hay là kiếm cơ lập thế mà cướp của người ? Ngươi còn già miệng bào chữa cho mình sao ?
Họ Triệu tâu :
– Tôi có ăn chay vía tam quan ( là ba rằm lớn : rằm Tháng giêng vía Thiên quan, rằm tháng bảy vía Địa quan, rằm tháng mười vía Thuỷ quan ) thiệt là mong ba vị tam quan đại đế bảo hộ. Nào hay bây giờ bị hoạn nạn này, ba vị tam quan đại đế, sao chẳng đến mà cứu tôi!
Tần Quảng Vương phán :
– Lời ngươi nói ấy, tội đáng bằng hai, lấy bàn sắt vả miệng nó mười cái. Ba vị tam quan đại đế là Thiên quan, Địa quan, Thuỷ quan là ba vị thần ngay thẳng, phù hộ ngừơi lành. Người làm lành, tuy chẳng ăn vía ba rằm lớn xong cũng có phước, không lẽ Thần linh lại bảo hộ cho bọn không nhân nghĩa nhà ngươi sao ? Nếu người làm lành mà ăn chay, thì chay ấy giúp thêm việc lành. Nếu làm ác mà ăn chay, là viện lấy việc ăn chay mà thẳng tay làm ác sao ? Ngươi còn dám nói hồ đồ ? Truyền dẫn qua Địa ngục.
Án thứ 4
Phán quan đọc án kế :
– Họ Châu ở huyện Đông Thành, qua ngụ ở đất Hán Khẩu, làm nghề thợ bạc, hay chế bạc chất lượng kém, bạc giả mà hại người mất tình nghĩa, mất thể diện ; gây tội nhiều lắm. Đặc biệt có một tội nghiêm trọng là :
Một người buôn bán ở huyện Kỵ Thuỷ đem hơn một trăm ba chục lượng bạc nguyên chất, thuê hắn nấu ra bạc chín ( nghĩa là bạc mười nấu ra bạc chín, chín chỉ bạc pha một chỉ đồng ). Nó lại nấu phân nửa bạc, pha phân nửa đồng, thành ra bạc năm, kẻ đi buôn kia bị lừa không biết, sau buôn bán nửa đường mới hay bạc năm, bị lỗ nặng, uất ức sinh bệnh mà chết. Tuy ngươi ăn gian sáu chục lượng bạc, sớm bị quả báo bệnh tật, phải thuốc thang hết tiền hết bạc, nhưng tội còn rất nhiều. Tra cứu cả cuộc đời ngươi, không có điều lành gì mà cấn trừ cả.
Tần Quảng Vương phán :
– Truyền dẫn qua Hoả thành ( thành lửa ) mà thiêu suốt một tháng, cho người chết oan bớt tức. Rồi giam vào Địa ngục, chưa tính đến chuyện đầu thai.
Án thứ 5
Phán quan đọc án kế :
– Họ Tiền, ở huyện Ma Thành, xóm Trịnh Gia, làm cai trong huyện ấy. Cả đời hay xúi người ta kiện thưa mà ăn chia tiền của đem lo lót. Nó có xúi người cháu chồng, kiện thím dâu thủ tiết thờ chồng (là chú hắn), đoạt gia sản của thím dâu, mà ăn lo lót ( ăn chia ) hơn năm trăm lượng bạc. Tiết phụ bị bức hiếp, tức mình lâm bệnh mà chết! Huống chi còn nhiều tội ác khác, có lẽ nào mà được đầu thai ngay, dẫn nó quăng lên núi đao mà trị tội.
Họ Tiền tâu :
– Tôi có kiêng sát sanh sáu bảy năm, nhờ ơn vua khoan hồng.
Tần Quảng Vương phán :
– Ngươi đừng nói vớ vẩn! Đã biết kiêng sát sanh là việc lành, sao ngươi biết tiếc mạng sinh vật, mà chẳng thương tiếc mạng người ? Ngươi hôm nay xúi kiện cáo, ngày mai tranh đua việc sai trái, hại chẳng biết bao nhiêu mạng. Tha mạng vật mà giết chết mạng người, ấy là không phân gốc ngọn lớn nhỏ, sao có thể vì sự nhỏ mọn ấy, mà tha tội lớn được ? Huống chi ngươi kiêng sát sanh chẳng qua để lấy tiếng thơm, mua danh lành, chứ không phải xuất phát vì lòng thương vật. Song vì ngươi thực cũng có chút căn lành mà kiêng sát sinh, Trẫm cho ngươi một cơ hội, tha khỏi quăng lên núi đao, cho được đầu thai mà phải làm con nhà nghèo, mang hai tật câm và mù, đi ăn mày trọn đời, nếu biết thân mà giữ phận đền tội trọn hết đời, sau xuống đây sẽ xét lại.
Án thứ 6
Phán quan đọc án kế :
– Họ Thư ở phủ Thừa Thiên, làm chức Điển sử, cha làm Thư lại ( thư ký ) tại phủ. Ba mươi tuổi chết. Hồi trẻ xuân xanh hay trưng diện đi dụ dỗ đàn bà, phá tiền của người ta, hại mạng người không biết bao nhiêu, tuy tại chúng nó đắm say, mê muội, song cũng vì ngươi tham tiền của mà quyến rũ ; không thể nào dung tội ngươi được. Huống chi ngươi trưởng thành lại càng đắm say tửu sắc, cướp vợ con người ta, chẳng biết bao nhiêu mà kể. Nếu nàng nào không thuận, thì cậy thế quan quyền, mà vu hoạ hại người! Cho nên vào nhà nào, phụ nữ nào cũng sợ oai mà chịu bị ngươi hiếp. Tội dâm ác thái quá, giết cũng chưa vừa, đáng giam vào trong ngục đao kiếm.
Phán quan xem kĩ sổ rồi lại tâu :
– Song tên tội này có hiếu với mẹ lắm. Mẹ ngoài sáu mươi tuổi đau nặng. Y sắc thuốc nếm rồi mới dâng, đêm nằm không cởi dây nịt. Vài tháng như vậy mẹ hắn bệnh ngặt nghèo, ăn không được, y cắt thịt nơi bắp vế nấu cho mẹ uống nước cho bổ, nhờ vậy sống thêm được vài ngày. Ta cũng nên rộng lượng một chút.
Tần Quảng Vương phán :
– Thượng Đế tuy ghét tội dâm ác lắm, mà rất trọng con hiếu thảo. Bởi nó biết nuôi cha mẹ là hiếu, mà chẳng biết giữ mình trong sạch mới là chí hiếu. Trẫm tha tội giam trong ngục đao kiếm, lại cho đi đầu thai, song làm điếm lầu xanh mà đền tội dâm ác. Nếu sau biết ăn năn sẽ xét lại.
Phán rồi cấp điệp ( giấy ) qua cho vua Đông Nhạc mà cho đi đầu thai.
Án thứ 7
Phán quan đọc án kế :
– Họ Tôn ở huyện Võ Xương, 19 tuổi cải thành họ Trương đi lính hầu tại phủ. Tính hay bợ đỡ quan phủ, lại đa mưu túc kế. Gan to mật lớn, gian hùng việc gì cũng dám làm. Hầu việc ở các dinh, ông quan nào cũng bị y lừa hết. Đến nỗi việc mạng người sống hay chết, đều do tay y thao túng. Việc phải trái được mất, đều nơi miệng nó xúi giục. Tội ác chất đầy, đếm không hết. Luận tội dương gian đã khó tha thứ, luật hình âm phủ càng không dung. Mau dẫn qua địa ngục Đao sơn.
Họ Tôn tâu :
– Tôi có dùng năm chục lượng bạc mà mạ vàng cho tượng Phật tại chùa Báo Ân. Lại cúng tiền dầu thắp đèn, lại có ăn chay, niệm Phật A Di Đà một ngàn câu.
Tần Quảng Vương phán :
– Tên khốn kia! Nếu làm ác, sao không biết ăn năn chừa lỗi, làm phước niệm Phật, thì ta tha tội. Có đâu mượn tiếng cúng chùa niệm Phật, mà làm ác thẳng tay. Phật A Di Đà không lẽ giúp sức cho người làm ác sao ? Ví dụ như kẻ vì tửu sắc mà sinh bệnh, uống thuốc để chữa. Nếu kiêng tửu sắc, thì uống thuốc mới khỏi. Còn nếu vẫn mê say tửu sắc như xưa, thuốc nào mà trị cho nổi? Phước ngươi làm đó chưa đủ để bù đắp cho tội ác của ngươi đâu, coi như đó là gieo duyên với Phật những kiếp sau này. Còn giờ, dẫn nó qua Địa ngục !
Án thứ 8
Phán quan đọc án kế tiếp :
– Họ Ngô, ở huyện Huỳnh Cang, hồi nhỏ đi học, thi khoa tú tài không đậu, học qua nghề viết đơn mướn.
Vua nói :
– Xưa nay kẻ chuyên viết đơn thưa kiện, không có ai hiền lành bao giờ.
Họ Ngô tâu :
-Tôi là kẻ đại thư cứu viện cho kẻ dốt không biết viết đơn, chớ không làm điều gì ác.
– Kẻ bố thí, phước chẳng phải do của bố thí mà tại tấm lòng ; kẻ chém giết, tội chẳng tại gươm mà tại ý. Khi ngươi viết đơn kiện cáo, trong đầu tính cáo buộc cho gay gắt, như muôn ngọn lửa cháy bừng khó tắt. Nghiên mực độc hơn ao máu, ngòi viết sắc bén còn hơn lưỡi gươm. Viết một chữ, phá nhà phá cửa người ta dễ dàng. Sửa một nét, giết mạng người như chơi. Dưới lửa độc, đủ đồ hình cụ ; trên tờ đơn, đều cửa ngục hình. Viết đi còn viết lại cho thật hay, buộc tội trước lại buộc tội sau cho thật gắt! Kẻ có tội không bắt cho mau, người không tội lại quyết gài tội cho chắc. Nhiều lúc nói hai lưỡi, làm bộ giết nguyên cáo mà thực ra là hại bị cáo. Lòng độc như yêu xà khó lường, mưu sâu như quỷ quái khó thấu. Kể sao cho xiết những tội ác của ngươi, mau dẫn qua mổ bụng rút ruột, cho nếm đủ tội hình, giam hoài nơi Địa ngục. ”
Án thứ 9
Phán quan đọc án kế :
– Họ Trần ở huyện Kỵ Thuỷ, phạm tội ăn trộm.
Vua xem án rồi, hỏi rằng :
– Ngươi may được làm người, sao theo đường trộm cướp ?
Họ Trần tâu :
– Tôi hồi nhỏ thiếu ăn thiếu mặc, cha mẹ, em út, kêu đói suốt ngày, vả lại gặp năm mất mùa, lúa gạo đắt đỏ, xưu cao thuế nặng, cực chẳng đã mới đi trộm cướp !
Vua ngó Phán quan mà phán rằng :
– Người này tuy là ăn trộm, song hắn nói cũng phải. Hãy tra bộ sổ cho kĩ, coi còn làm những việc gì nữa ?
Phán quan tra bộ rồi tâu rằng :
– Họ Trần có giật đồ của người đi buôn lúc đi ngang núi Mai Lãnh tại huyện Kị Thuỷ. Sau bị bắt nguội, giải đến quan họ Từ, vốn là người ở huyện Ngô, phủ Tô Châu, quan bắt hắn viết lời khai. Họ Trần lại viết bài thơ như vầy :
“Nào là kẹp khảo, nào tra tấn,
Tâm niệm nhà ngươi, độc hơn ta.
Tay ngươi móc gan, rồi thọc huyết,
Gươm đao đầy bụng nhiều hà sa. ”
Quan huyện họ Từ xem thơ, rồi mới nói với các Thư lại rằng :
” Chúng ta thiệt cũng như ăn cướp, còn muốn xử tội ăn cướp sao ? Các Thư lại, cai bếp, quân lính đều đi bắt đầu này đầu kia, mà kiếm chác cho ta, thì cũng như bọn lâu la đi cướp, kiếm tiền cho tướng cướp! Chi bằng ăn năn cho sớm, lo tu nhân tích đức mà kiếp sau được nhờ, cho khỏi bị đoạ ”
Những tên nha dịch đều bẩm rằng : ” Chúng tôi đã tập quen thói ác rồi, và lại còn nuôi gia quyến, thật khó ăn năn sửa lỗi lắm! ” Lúc ấy họ Trần thưa : ” Có khó chi đâu! Kẻ tu thân phải có can đảm, trí tuệ khác hơn người thường, cũng lăn xả mạnh mẽ như đứa ăn cướp, thì mới nên việc. Đứa trộm cướp gan lì không sợ mới dám phá cửa mà cướp của người, dễ như trở tay, muốn làm sao thì làm vậy. Nếu quyết hồi tâm đi tu, thì cũng phải can đảm, lăn xả như vậy, thì ác nào mà bỏ không nổi, lành nào mà làm không được! ” Nói rồi ngâm bài thơ như vầy :
“Gương ác báo giục ngực người làm ác,
Tiếng chuông chùa khuyên thế ở lành ?
Đao kiếm vốn không, lòng mới độc,
Tánh tình sẵn có thiện cùng tà.
Xưa mê ngũ dục, say vô độ,
Nay tỉnh ăn năn, sợ thất thanh,
Chừa lỗi hồi tâm tu dễ quá,
Nhất tâm hối cải, bỏ thì thành. ”
Khi ấy trong nha môn : nhiều kẻ hồi tâm, từ chức đi tu mười mấy người.
Tần Quảng Vương phán :
– Quả là có công đức ấy, đủ chuộc tội trộm cướp. Huống chi trộm của, chứ chưa hại đến mạng người, đáng giảm phân nửa tội. Đáng ghét là tội gian dâm, vì no ấm mà sanh tật. Còn đạo tặc phải suy xét, do bởi đói nghèo ăn không đủ mà liều mạng. Sự cùng mà biến, tội cũng có thể khoan dung. Tha tội cho họ Trần, cấp giấy qua vua Đông Nhạc lãnh phần đầu thai làm thầy chùa du phương tại núi Thiên Thai. Nếu chịu khổ hạnh tu hành, sau sẽ siêu độ.
Án thứ 10
Phán quan đọc án kế :
– Họ Trần ở huyện Viên Dương từ hồi nhỏ ăn chơi hoang đàng, lười biếng, làm cho cha mẹ chịu lạnh, chịu đói khổ, ưu phiền sinh bệnh mà chết, là vì con không cần kiệm kiếm tiền mà nuôi dưỡng. Còn nó tới 49 tuổi cũng chết vì đói
Tần Quảng Vương phán :
– Tuy nó không làm điều chi ác lắm. nhưng mà làm biếng lại ăn xài hoang phí. Những đứa trộm cướp, chẳng phải do muốn giết người, muốn đốt nhà làm ác, chẳng qua do lười biếng lại tiêu xài hoang phí, túng quá mới sinh ra nghề ấy. Cho nên siêng năng và tiết kiệm, thiệt là cội rễ nên nhà nên cửa, mà cũng là gốc tu thân sửa tính nữa. Kẻ quân tử, ai cũng cần kiệm. Tại ngươi không siêng năng mà lại chẳng tiết kiệm, để cho cha mẹ đói lạnh mà chết.
Như vậy, không cần kiệm tuy là lỗi nhỏ mà tội không nuôi cha mẹ là bất hiếu khó dung tha. Dẫn nó qua pháp trường, mổ bụng lắc bao tử và móc ruột mà trị tội hoang phí. Rút cho hết các sợi gân lười biếng, mà trị tội không cần cù. Nay cha nó đã đầu thai làm chức thư lại tại huyện Thường Châu, ở sau Tây Môn, cho nó đầu thai làm con lợn trong nhà của cha nó, để bán lấy tiền mà đền tội bất hiếu đời trước.
Án thứ 11
Phán quan đọc án kế:
– Họ Khương ở châu Hưng Quốc, là nhà giàu mà bất nhân, năm mươi mốt tuổi, bị một người dân nghèo là họ Hồ giết. Họ Khương giàu còn hơn cả cái châu ấy cộng lại, vựa lúa lớn bán cho các thương lái khắp nơi. Có năm trong xứ chết đói vì mất mùa, họ Khương chẳng bố thí cho nhà nghèo một nắm lúa gạo. Khi ấy quan phủ, quan huyện cho mời y, bảo bố thí cho dân đói, y lo hối lộ để khỏi phải bố thí. Đến nỗi bà con hoạn nạn chết đói, y cũng không ngó tới!
Tần Quảng Vương phán :
– Ngươi bình sinh trọng tiền bạc, chẳng hề cho ai vay mượn để người ta chết đói, tâm ngươi khắc bạc ghê gớm, độc hơn tội giết người, không thể nào dung tha được.
– Tới đây tôi mới biết đã mắc tội nơi luật trời. Xin Vương gia tha tôi về, rồi tôi cải ác tùng thiện, xuất hết của tiền lúa gạo mà bố thí cho dân nghèo. Xin vua rộng lòng y tấu.
– Ngươi còn trông sống lại hay sao? Kho thóc trong nhà còn thuộc về của ngươi hay sao? Con cái của ngươi đều là oan gia đầu thai đòi nợ, chưa đầy một năm nó sẽ phá hết gia sản, không còn sót món nào!
Khương nghe rõ, khóc ròng than rằng:
– Tôi bấy lâu chắt chiu từng đồng quyết để lâu dài. Cực chẳng đã mới bỏ vài đồng ra mua củi, hoặc mua rau cũng đã tiếc lắm. Ai dè con là tội báo oan gia đầu thai vào mà phá hết gia sản, thật tức biết chừng nào!
– Cái tội keo kiệt cũng như tham gian – Tần Quản Vương phán – Trước cho làm ngạ quỷ, bỏ đói cho lâu. Sau sẽ cho đầu thai làm ăn mày, chịu đói rách mà đền tội vắt cổ chày ra nước.
Án thứ 12
Phán quan đọc án kế:
– Họ Doãn ở huyện Quy Đức làm thầy thuốc dởm (lang băm ), bốc thuốc lung tung hại chết vừa nam vừa nữ tổng cộng mười một mạng. Tánh thích ăn thịt trâu lắm, bữa nào cũng có thịt trâu mới chịu cầm đũa, tội ấy cũng nhiều. Tuy trốn khỏi tội Dương gian, chớ tránh sao cho khỏi luật Âm phủ.
Tần Quảng Vương phán:
– Phạt nó đầu thai làm trâu mười một kiếp, mà trừ tội bốc thuốc hại mười một mạng người.
Án thứ 13
Phán, quan đọc án kế:
– Họ Lý ở huyện Thần Châu, chuyên nghề làm mai mối. Miễn có tiền là làm hết, khi thì dụ giỗ, lừa gạt con gái nhà lành, mai mối cho chúng thành ở đợ, làm vợ bé mà chẳng chút động lòng thương. Đến mức làm mai con nít cho ông già, cột mối bà già cho trai nhỏ, bọn chúng ấm ức, tức mình phát bệnh mà chết hết bảy người, vì không thể sinh đẻ nối dõi được.
Tần Quảng Vương phán:
– Bởi tội ngươi nói láo mà dụ giỗ gạt người, nên bị án nặng. Truyền cắt lưỡi, bẻ răng, bỏ vào ngục đời đời, cho các oan hồn bớt ấm ức.
Án thứ 14
Phán quan đọc án kế:
– Họ Phùng ở huyện Miễn Dương, là tên tá điền, năm nào cũng giấu bớt lúa mà kiếm chút đỉnh. Nếu năm nào mà trúng mùa, thì đem lúa ngâm nước một đêm mới đong lúa cho chủ ruộng để kiếm thêm tiền. Chủ điền tức mình, đòi ruộng lại cho người khác thuê, nó nhờ thầy kiện không chịu giao. Đến khi làm ra lẽ, đòi lại được để cho người khác thuê, thì tới lúc gieo mạ, giống lúa sớm nó lén rải lúa muộn vào, hoặc lúa muộn, rải lén lúa sớm vào, lộn xộn khiến cho mất mùa, phải bỏ ruộng cho nó thuê. Tội hung dữ ngang ngược thái quá, không phải tầm thường. Đáng phạt đầu thai làm đứa ăn mày đầu đường xó chợ, mà đền tội ngang tàng kiếp trước.
Họ Phùng tâu:
– Tôi thiết nghĩ, phàm nông dân ruộng rẫy, đều cần kiệm cực nhọc, dù lỡ có tội gì nhỏ mọn cũng đáng rộng lượng bao dung. Vậy xin Vương gia ân xá.
Tần Quảng Vương phán :
– Kẻ lo làm ruộng tay chân mỏi nhọc không nghỉ, ăn uống cực khổ, làm có dư ra thì bán cho đời, thiên hạ đều nhờ. Vậy mới có công với đời, được thế mới tha lỗi nhỏ. Có đâu tham gian, độc ác như ngươi, đừng có nói nhiều chuyện, quỷ sứ dẫn giải đi cho mau.
Án thứ 15
Phán quan đọc án kế:
– Họ Uông ở huyện Than Âm cha nó ăn chay làm lành, nó chẳng nghe lời cha dạy. Cả đời làm nghề đánh cá, mỗi ngày bắt cá chạch, lươn, tôm, cua đinh, không biết bao nhiêu mà kể. Cha nó có la mắng thì nó cự cãi và mắng lại như ăn cơm bữa, song nó có hiếu với mẹ lắm, mẹ nó bị bệnh, thì lo chạy thang thuốc, nuôi dưỡng hết lòng. Bởi lẽ ấy, nên Táo quân có tâu với Thượng đế xin cho giảm án.
Vua ngó Phán quan mà phán rằng:
– Tên này trái lòng nhân của Thượng đế, vì lòng trời muốn muôn loài sinh ra cho nhiều chứ không muốn giết hại.
Rồi nghiêm mặt, mắng rằng:
– Loài cá trạnh thù oán chi với ngươi, nếu có việc gì phải lẽ như là nuôi ông bà, nuôi cha mẹ, cực chẳng đã bắt mà dùng. Vậy nên đức Khương Tử Nha, câu cá mà lưỡi câu thẳng cũng là thể theo ý trời. Nếu chài lưới đánh bắt như ngươi, mà nhiều người làm theo như vậy, thì tôm cá lươn trạnh tuyệt chủng mất. Nếu tính số mỗi mạng con vật, cho ngươi đầu thai làm súc sinh mà đền mạng, thì muôn đời cũng chẳng dứt nợ oan trái ấy. Lại thêm chuyện mắng cha, tội lớn thấu trời, thôi dẫn qua địa ngục.
Phán quan tâu:
– Vương gia thường trọng chữ hiếu, tên này lúc mẹ bệnh, nuôi dưỡng lo chạy chữa hết lòng, khi mẹ liệt, nó lóc thịt bắp vế mà nấu cháo cho mẹ ăn bồi bổ cầm hơi, cũng nên cấn trừ tội cho nó.
– Bất hiếu với cha, mà chí hiếu với mẹ, thôi thì Trẫm cũng rộng lượng cho cấn trừ. Tính một tội đánh cá, cho đầu thai làm một đứa hung hăng, hai mươi tuổi bị quan xử trảm, rồi xuống đây tính tiếp.
Án thứ 16
Phán quan đọc án kế:
– Họ Trần ở Hán Trấn, lòng dạ xảo trá lắm mưu kế, không lo nghề nghiệp làm ăn. Hằng ngày rủ rê con em nhà lương thiện đánh bài bạc mà kiếm tiền, và còn cờ gian bạc bịp nữa, đến nỗi nhiều người tán gia bại sản, mà thói ác vẫn không chừa. Lại lập mưu bắt con gái nhà nghèo làm hầu thiếp. Hai tội nhập một thật rất nặng.
Diêm Vương phán :
– Nghề bài bạc hại người độc hơn nước lửa trộm cướp. Nếu bị thua quá, thì người ta phải bỏ nghề nghiệp, bỏ đường ngay thẳng, gái trai thành ra hư danh thất tiết, tới nỗi tan gia bại sản, liều thân mạng. Ngươi tai mắt không thiếu, đủ tay đủ chân, sao không học nghề nghiệp làm ăn ngay thẳng, mà sống cho qua ngày. Trước làm thiện dân không phạm luật triều đình, sau làm người phải, khỏi ô danh tổ phụ. Nghĩ thế nào lại dùng tai mắt mà làm bậy, lo mưu kế mà gạt người.
Cái thân hữu dụng, lại đem đi gây tội vô cùng. Khác nào: ‘ăn thịt người cho no bụng, phá nhà người để vui lòng’. Cho nên phải trả quả báo. Tuy đã phạt người tuyệt tự, vì tội mưu mô bắt con gái về làm người hầu. Còn tội chứa cờ bạc, không thế nào tha được. Quỷ sứ! Chặt mười ngón, và hai tay, rồi mổ bụng móc tim rút ruột. Xong giam cầm nơi Địa ngục, chưa tính đến chuyện đầu thai.
Họ Trần tâu:
– Tôi tối dạ đi học không được, tập tành bài bạc kiếm tiền dễ hơn. Lỡ vào nghề đó, sinh gian sinh lận. Song ăn thì lấy, thua thi trả, hai bên tình nguyện như nhau. Chứ tôi không giật của người ta, xin Vương gia dung thứ.
– Rủ rê kẻ thật thà, ăn gian ăn lận, dù anh em cũng quyết lột da, huống chi bằng hữu. Khiến người ta mất tiền mất của, ngươi mới hài lòng. Ai dại gì tình nguyện đem của mà cho ngươi, là tại ngươi lập mưu mà gài bẫy, bên ngoài nói lời ngon ngọt, làm như tình nghĩa ruột rà, nào là đãi ăn, nào là phục rượu, nào là đem nữ sắc mà quyến rũ cho mê say. Ấy là trăm mưu ngàn kế mà gạt người, tộc ác dường nấy mà bỏ luật dung tha sao cho được ? Quỷ sứ cứ việc dẫn nó đi.
Án thứ 17
Phán quan đọc án kế:
– Họ Lý ở huyện Hoành Dương đi lính theo quân Du kích. Còn họ Du, huyện Huỳnh Mai cũng đi lính chuyên cầm cờ đánh trống. Còn họ Thanh cũng ở huyện Huỳnh Mai, là lính pháo thủ của quan đề đốc họ Lý tự Giang Tư. Ba tên ấy đều có đánh trận.
Diêm Vương phán rằng:
– Quân lính trong đội ngũ chinh chiến, tay cầm gươm đao, lòng dạ hung hăng, thắng trận thì bắt hiếp vợ con người ta, thậm chí ăn thịt người nữa. Tội ấy chẳng vừa, đáng quăng lên ngục Đao sơn cho đáng kiếp.
– Riêng họ Thanh lúc phá thành Dương Châu -Phán quan tâu – bắt được ba người mà không giết. Bắt được hai người đàn bà mà chẳng động tới, đều trả lại cho chồng. Hai người chồng đền ơn bạc tiền, y cũng không chịu lấy. Hai khoản ấy phước phần không nhỏ. Huống chi mỗi tháng ngày rằm với mồng một, ăn chay tụng bảy biến kinh Cao Vương.
– Có công đức như vậy, Trẫm cũng đáng kính đáng khen, cấp điệp cho họ Thanh, qua vua Đông Nhạc, mà đầu thai làm chức quan văn thất phẩm, sống bảy mươi chín tuổi, không bịnh mà qua đời, con cháu hai đời đều được công danh vinh hiển. Còn hai hồn linh kia xử y án trước.
Án thứ 18
Phán quan đọc án kế:
– Nàng Tiền Mẫu Nương ở huyện Gia Ngư, tính hay ghen dữ dội và ngỗ nghịch với cha mẹ chồng.
Diêm Vương phán:
– Nội một tội bất hiếu với cha mẹ chồng, cũng đáng giam trong ngục A tì rồi.
Nàng Mẫu Nương tâu:
– Khi còn sống tôi có ăn chay bố thí nhiều lắm.
– Dầu ăn chay bố thí như vậy, cũng chuộc không nổi tội bất hiếu với cha mẹ chồng. Song nghĩ ngươi ăn chay bố thí, nên tha cho tội xay giã mà thôi, giải qua giam vào Địa ngục mà làm gương cho những nàng dâu ngỗ nghịch.
Án thứ 19
Phán quan đọc án:
– Nàng Châu Tú Nương, ở phủ Thừa Thiên, có chồng mà đi ngoại tình, ấy là tội nặng. Lại thêm giết hại một mạng đứa hầu gái.
Tần Quảng Vương phán :
– Đàn bà có đức chính chuyên phải theo một chồng. Tính nết phụ nữ, phải hiền hậu nết na, mới phải đạo đức hạnh. Ngươi là con khốn, không biết xấu hổ không giữ chính chuyên, lấy trai lang chạ; là bởi ham ăn làm biếng không lo việc nữ công, ăn no ở không, mơ tưởng việc dâm dục, tham ăn thịt mê uống rượu, lại điệu đà trang điểm, bán dạng thuyền quyên, làm con trai mê mẩn mang tiếng xấu danh nhơ, mi đã thất tiết xấu xa, hại chồng mi mang nhục, hủy thể diện cha mẹ tông môn của mi, không lo con cháu hổ thẹn. Tuy đội lốt người, mà khác nào súc vật.
Lại còn độc ác, giết đứa hầu gái. Sao không biết xét, hầu gái cũng có cha mẹ sinh thành, bởi kiếp trước nó không tu, nên đời nay hèn hạ. Mi xấu tính, cũng coi như là đứa hèn hạ thôi, mà được sai khiến đứa hèn khác đã là quá phép. Nỡ nào không có lương tâm, mà đành đoạn hại mạng nó ? Mau nấu dầu mà trị tội lăng loàn và cho hồn oan con hầu gái hết tức. Rồi giam cầm trong Địa Ngục chưa tính chuyện đầu thai.
Án thứ 20
Phán quan đọc án kế:
– Nàng Thành Sửu Nương huyện Thanh Âm hay xúi chị em, bạn bè, làng xóm sinh sự, gây chuyện cãi vã, khiến đàn bà con gái xóm ấy có người bị hàm oan, tức mình thắt cổ mà chết. Rồi lại hay bảo mấy nàng đang thủ tiết thờ chồng đi lấy chồng khác. Y sinh con gái năm lần, đều ghìm nước chết hết.
Tần Quảng Vương phán:
– Hại một người dưng thì thường mạng một kiếp, nếu mà hại một mạng ruột thịt, phải thường mạng hai kiếp. Truyền quỷ sứ dẫn hồn con ma thắt cổ, và năm con ma cô nhi, kéo nó ghìm xuống ao nước sôi, cho hả dạ.
Xong rồi bắt lên, cắt lưỡi mổ bụng móc ruột, chưa cho đầu thai, giam cầm hoài nơi Địa ngục, mà trừ cái tội khuyên tiết phụ cải giá và xúi người sinh sự.
Sửu nương tâu:
– Chẳng phải tôi ham thích khuyên cải giá làm chi. Bởi thấy chúng nó còn trẻ mà nghèo khổ, lại không con, thủ tiết ích gì, chi bằng cải giá sống no ấm cho qua ngày: ấy là lòng tốt của tôi.
– Ác phụ không biết phải trái kia! Đàn bà lấy chồng là chuyện phúc họa cả một đời, nếu chồng chết, thì phải thủ tiết. Lẽ trời rất phục việc thủ tiết của người phụ nữ. Dầu có chết đói, ngàn muôn năm cũng ngợi khen tiếng thơm. Nếu nó muốn tái giá, ngươi cũng phải cản trở, mới là có lòng tốt. Sao lại bảo nó cải giá, làm cho nó mang tiếng thất tiết trọn đời. Người đừng cãi cố nữa. Mau giải đi hành tội.
Án thứ 21
Phán quan đọc án kế:
– Lý Khải Nương là con hầu ở nhà Mễ. Làm đổ gạo cơm trong bếp, dính trên miệng lò, huỷ hoại của trời hơn mấy năm kể chẳng xiết (tội đổ phí thức ăn). Hay ăn vụng ăn cắp của chủ, mà đổ thừa cho người khác, hại con đầy tớ khác phải bị đòn oan. Hay lấy của không cho và dắt trai vào nhà, tư tình với cô chủ, tội ấy rất nhiều. Lại hay cải giá, tính ra đã ba đời chồng, tội quá nặng.
Tần Quảng Vương phán :
– Ngươi kiếp trước làm nhiều điều ác, nên phạt ngươi làm tôi mọi. Sao không biết xét, tuy là người mà làm thân tôi mọi, cũng như ngạ quỷ_ súc sanh _địa ngục, những điều khổ ấy, hãy còn chưa biết ăn năn tu mà mong nhờ kiếp sau sung sướng.
Phán quan tâu:
– Hầu gái cũng là con người, sao lại như ngạ quỷ, súc sanh, Địa ngục ?
– Tôi mọi ăn uống không được tử tế, khác nào ma đói. Không ai dùng lễ mà đối đãi, nào khác súc sanh. Không được tự do lấy chồng sinh con, thường bị giam giữ, hành hạ, khác nào địa ngục. Nay không biết ăn năn, còn phải xử thêm thế nào ? Phải hành cho đủ tam đồ (nước – lửa – đao ) mới đáng, chưa cho đi đầu thai được.
Án thứ 22
Phán quan đọc án kế:
– Lưu Thất Nương ở huyện Quế Lâm, bốn mươi tuổi mà không con, tánh đa dâm và hay ghen lắm! Chồng muốn cưới thiếp, Thất nương không cho. Chồng lén cưới vợ bé, gửi bà con nuôi. Thất Nương hay tin bắt người vợ bé, lấy bàn là ( bàn ủi ) nóng chà lên người cô ta, khiến cho bị bỏng nặng, lở loét mà chết!
Tần Quảng Vương phán :
– Cấm chồng cưới, cho tuyệt tự để thờ một mình mình, lợi ích chi cái đó. Huống chi lại lấy cách hành hình thảm khốc mà giết người, chắc là tha không được.
Thất nương tâu:
– Đàn ông không con, cho phép cưới thiếp, còn đàn bà không con, chẳng cho cải giá, việc ấy bất công, thiệt là xử oan cho tôi lắm.
– Thứ súc sinh không biết hổ thẹn nhà ngươi, hãy còn cãi cố! Không biết hồi sống ngươi kềm chế chồng mi ra thế nào ? Tính đa dâm, ghen tuông, hại người tàn ác như ngươi, trước cho vào Địa ngục, sau phạt đầu thai làm con điếm, ba mươi tuổi mắc bệnh ghẻ lở hôi thối đầy khắp thân mình, chết bỏ thây dọc đường, cho chó ăn thịt cho đáng tội.
Án thứ 23
Phán quan đọc án kế:
– Tào Thị, ở huyện Ngô Giang làm vợ lẽ người họ Chữ ở quận Trường Sa. Họ Chữ chết sớm. Tào Thị khắc nghiệt với con ghẻ trăm bề. Các việc ăn mặc đều thua kém so với con chung. Tới lúc phân chia gia sản thì chia phần hơn phần tốt cho con mình. Con ghẻ chịu sự ấm ức, tới nỗi tức tối sinh bệnh mà chết!
Tần Quảng Vương phán :
– Con ghẻ ngươi sống có hiếu với ngươi cũng như mẹ đẻ không khác. Sao ngươi khắc nghiệt với con ghẻ đến thế, thiệt là lòng dạ như cầm thú, đáng đầu thai làm súc vật mới xứng tội.
Phán quan tâu:
– Tào Thị đến khi về già lòng thành niệm Phật, lại ăn chay kiêng sát sanh ba năm, ăn năn hối lỗi, cầu siêu mong đền tội với các hương hồn.
– Vậy thì tha cho khỏi đầu thai làm súc vật, song phải đầu thai làm con ghẻ, làm tôi mọi mà đền tội hết đời.
Án thứ 24
Phán quan đọc án kế:
– Mười lăm vị hoà thượng phạm tội ác.
Diêm Vương nói:
– Các sư xuất gia đi tu, đúng lẽ thì phải làm Thánh chứ, cớ nào lại đeo thẻ bài tội ác ?
Mười lăm hoà thượng tâu:
– Nhờ vương gia từ bi dung thứ.
– Các sư có hay biết điệp văn mới gởi đến đây chăng?
– Chúng tôi chưa hay.
Vua đem điệp văn đọc lớn rằng:
– Chùa chiền đời nay đã biến tướng hư hoại lắm, mối đạo Phật lưu truyền đã mòn rồi, như ngọn đèn gần tắt. Các sư sãi tuy tiếng đi tu, thực ra trong đó nhiều người giả dối, tệ hại. Trong một ngàn hoà thượng, lựa ra được chừng một hai người xứng đáng, không hổ thẹn mà thôi! Cõi Âm phủ phải tra xét cho rõ ràng, đừng lầm các sư sãi lừa đời dối thế. Các sư sãi đã thấy điều luật của các vị tại câu này chăng ?
– Chưa thấy – Họ đồng thanh tâu
– Để Trẫm giảng các tội án trong điều lệ tu hành cho mà nghe. Các sư tuy đi tu, mà trong lòng khác nhau hết :
Có kẻ cự nghịch với cha mẹ, giận dỗi mà bỏ đi tu, là tội bất hiếu lớn thứ nhất, còn nói làm chi! Có kẻ giận anh em vợ con mà đi tu. Có kẻ bị tiếng xấu, xấu hổ mà bỏ đi tu. Có kẻ quyết trốn thuế, hay vì đói rách mà đi tu. Có kẻ mê cảnh chùa tốt mà đi tu. Có kẻ mê mấy ni cô có dung mạo đẹp, muốn nhập vào chùa để cặp kề nên mới đi tu. Có kẻ ham làm chức hoà thượng sang trọng mà đi tu. Có kẻ mồ côi không ai nuôi mà đi tu. Có kẻ già cả không con cháu, không ai nuôi dưỡng mà đi tu. Có kẻ chán ngán việc đời là giả tạm, mến mộ đạo Phật là chốn siêu độ linh hồn mà đi tu. Các sư sãi ai tu vì lẽ gì thì khai thiệt đi ?
Các hoà thượng đồng tâu:
– Xin vương gia từ bi thẩm xét, thiệt chúng tôi chán ngán việc đời, nên xuất gia quy Phật mà cầu siêu độ linh hồn, chứ không có ý chi khác.
– Các sư đời nào biết xưng tội, đời nào chịu khai! Truyền chỉ Phán quan dẫn các sư đến Nghiệp Kính Đài xem thử.
Nguyên là tại Nhất điện ( là cửa điện thứ nhất), Diêm Vương Tần Quảng có lập cái Nghiệp Kính Đài phía bên phải điện chính. Đài ấy cao mười một thước, trên có treo cái mặt kính lớn mười người ôm mới hết vòng, treo chiếu qua hướng đông, trên giá treo mặt kính ấy có đề bảy chữ rằng: “ Nguyệt cảnh đài tiền, vô hảo nhân ” Nghĩa là: “ Trước Nghiệp Kính Đài, không phải người tốt ”
Các hồn chối tội, thì quỷ sứ dẫn lên đài, mà nhìn vào mặt kính, thì thấy hiện nguyên hình từ nhỏ tới lúc chết, làm những việc gì cũng đều ứng hiện lên hình ảnh như xem kịch (xem phim ) đủ hết không sót việc gì nên chối không được. Vua Tần Quảng mới y luật mà xử, hoặc giải qua chín cửa điện khác, v.v…
Khi ấy các sư sãi, từng người soi kính xong hết, chung quy lại ít có thầy nào chân tu mộ đạo cho thiệt tình! Coi ra ba người ăn mặn uống rượu. Một người tà dâm, hãm hiếp phụ nữ. Bốn người mê các sư ni nhỏ tuổi có nhan sắc. Bốn người tham tiền bạc, ăn gian của chùa. Trừ ra có ba sư, cứ sớm tối tụng kinh, công phu, xây chùa, dựng tháp thờ Phật, lo làm công quả trông chùa, chứ cũng không thông hiểu Đạo nhiều.
Vua cười ngất phán rằng:
– Hèn chi đức Thế tôn quở trách các ngươi làm hư hoại đạo Phật !
Liền phạt một sư gian dâm với bốn sư mê ni cô nhan sắc, tổng cộng bọn tà dâm năm người, đồng giam vào Địa ngục dành riêng cho Tăng ni. Còn bốn sư rượu thịt, đầu thai làm heo nhà bà kia cả đời ăn cám ăn hèm cho đã. Lại còn bốn sư ăn gian của chùa, phạt làm lừa ba kiếp, chở đồ vác nặng đi xa mà đền ơn trả nợ cho các thí chủ. Trừ ra ba vị thiệt tâm, tuy quyết chí đi tu mà chưa thông đạo vị, nên cho đầu thai làm Tăng mà tu tiếp, nếu siêng năng tu hành thông đạt Tam giới thì sẽ được siêu thăng. Mời qua vua Đông Nhạc để đi đầu thai.
Án thứ 25
Phán quan đọc án kế:
– Họ Gia ở huyện Văn Mộng hành nghề lái đò dọc sông Bá Dương. Tháng chạp năm Nhâm thân, lén giết một người bộ hành lấy được ba mươi lăm lượng bạc. Bị thưa kiện, quan tra xét không đủ bằng chứng nên tha về. Sau mang bệnh, lại nghèo khổ, phải đi ăn mày. Tới 38 tuổi, biết tội mình nặng mới quay đầu tu tỉnh. Cứu côn trùng, kiến, nhiều lắm, lượm nhặt giấy có chữ viết, cũng nhiều. Ăn chay, làm lành thường ngày tụng kinh niệm Phật. Tu hai mươi năm như vậy, mà cầu tiêu tội sát nhân, và cầu phước báo kiếp sau.
Tần Quảng Vương phán :
– May ngươi ăn chay làm lành, niệm Phật tụng kinh sám hối, ăn năn cầu xóa tội. Huống chi đã phạt làm ăn mày; đày đoạ đến hết kiếp, nên trừ được tội giết người mà lấy của.
Họ Gia Tâu:
– Tôi trước đại phạm tội, sau ăn năn tu hành. Xin vương gia xem xét cho tôi nhờ.
– Ngươi hãy đứng một bên, đợi Trẫm xử các án khác rồi sẽ quyết định sau.
Án thứ 26
Phán quan đọc án kế:
– Họ Lâm huyện Bành Thạch, đời ông cha có làm phước giúp người. Còn họ Lâm kiếp trước là thầy tu, ăn chay, bố thí 545 đôi giày rơm, trời lạnh bố thí tổng cộng 65 chiếc chiếu.( Đời cha ông hành thiện, sinh ra con cháu là người tích phước từ kiếp trước cho ăn khớp ) Nên đời nay họ Lâm 23 tuổi mà thi đỗ cử nhân, thi đậu rồi lại không giữ lòng ngay thẳng. Tư tình với một cô gái là Kim Thục Cô ở một xóm kia rồi bỏ đi, nàng ấy tức mình thắt cổ mà chết. Vả lại tính nết tham lam, nhận việc thuê kiện, đưa mối tranh tụng. Ra vào chốn nha môn lo lót cho quan lại, nên giành giật được vài trăm mẫu ruộng trong làng. Ăn chay thập trai chưa được một tháng thì bỏ. Lại còn nói: “Dẫu bỏ ăn chay mà kiếp sau làm ăn mày cũng chịu”. Bồ tát Quan Âm, Chuẩn Đề đã phó cho Táo quân dâng sớ đến Ngọc đế rằng: bỏ lệ ăn chay kỳ là phạm luật, nên phải phạt tội.
Diêm Vương phán:
– Ngươi nhờ đức tổ phụ và kiếp trước có tu, mà thi đỗ Cử nhân, đáng lẽ phải tu thêm phước đức. Nào ngờ mê muội, hung hăng làm ác, lại còn nói bỏ ăn chay, nguyện làm ăn mày. Đáng lẽ cho hành đủ tam đồ trong Địa ngục. Song thấy ngươi khi sống có thờ Quan Âm Bồ tát hết lòng thành kính, nên nay ta chỉ xử trảm, rồi cho được đầu thai, nhưng là thay hồn đổi xác, nhập vào xác tên ăn mày là họ Gia (án trước đang chờ xử) cho đúng theo lời nguyện. Còn Kim thục Cô đã đầu thai rồi, làm người hầu ở xóm Đồng. Một ngày kia, ngươi đi xin cơm tại nhà chủ nó, cho nó đánh chết ngươi mà thường mạng thắt cổ kiếp trước. Còn hồn họ Gia (án trước) cho nhập vào xác họ Lâm, được làm cử nhân, sống hưởng phước tới bảy mươi tuổi.
Án thứ 27
Phán quan xướng danh tiếp :
– Tội hồn họ Hàng mười bốn tuổi.
Tần Quảng Vương hỏi :
– Thằng nhỏ này, làm những tội chi ?
– Thằng này tuy còn nhỏ, mà chửi cha mắng mẹ thường xuyên. Tội hỗn ấy là tại cha mẹ nó cưng quá, nên nó quen nết hỗn hào, mang tội bất hiếu thấu trời. Khi nó đi học đạp lên giấy có chữ tính tới hơn 37.500 chữ. Thường khi nó ăn cơm còn thừa, hay đem đổ chỗ bẩn thỉu nữa.
– Trẻ con vốn không biết gì, ấy tại cha mẹ nó không biết dạy, thương thành ra hại nó. Đã phạm luật trời, không thể dung tha được. Quỷ Dạ xoa! Giải nó qua thành lửa mà thiêu đốt, chưa được đầu thai.
Án thứ 28
Phán quan đọc án kế:
– Họ Châu ở huyện Tiêu Lương, làm đồ tể mổ trâu bò. Họ Thẩm ở huyện Thạch Thủ làm nghề mổ chó. Họ Dương ở huyện Gia Ngư, làm đồ tể mổ heo.
Tần Quảng Vương phán :
– Ba tên đồ tể này, đáng quăng vào Đao sơn Địa ngục.
Họ Dương khóc mà tâu rằng:
– Tôi có ăn chay ba năm, theo kinh Huyết bồn. Vả lại làm hàng heo, nhẹ tội hơn hàng trâu bò và hàng chó. Xin vương gia xét lẽ tôi nhờ.
– Ngươi ăn chay theo kinh Huyết bồn mà cầu cho ai ?
– Tôi cầu cho mẹ tôi siêu thoát.
– Tuy kinh ấy là phi lý, huyễn hoặc, chẳng phải chân kinh, nhưng mà lòng có hiếu đáng khen. Song ngươi có hiếu với mẹ, sao không thuận theo ý trời mà có lòng hiếu sinh, lại đi làm đồ tể ?
– Xin vương gia xét lại, bởi cha tôi bảo nên tôi phải làm. Vả lại heo là loại thú người ta nuôi lấy thịt, không công lao gì với đời, xin vương gia rộng lượng.
– Ngươi ăn chay theo kinh Huyết Bồn mà có tụng chăng ?
– Dạ, có tụng.
– Người đời sau bày đặt ra kinh Huyết Bồn, chứ không phải của Tiên Phật, phải chi ngươi tụng kinh Địa Tạng, kinh Kim Cang, kinh Vô Lượng Thọ… chẳng những hồn mẹ ngươi tiêu tội, mà vong hồn tổ tiên ba đời cũng được nhờ. Ngươi có hiếu tụng kinh cho mẹ, Trẫm xóa cho tội làm đồ tể, cho qua Đông nhạc, đầu thai làm con trai, cố gắng kiếm việc tử tế mà làm ăn.
Diêm Vương quay sang hai tên còn lại :
– Còn hai tên mổ trâu bò và mổ chó, lại đây. Trâu bò cày ruộng mới có lúa cho đời, chó giữ nhà mới còn đồ cho chủ. Chúng nó đều có công với đời, ngươi giết vật có công, không thể dung tha. Phán quan tra thử chúng nó giết bao nhiêu chó, bao nhiêu trâu bò cày ruộng ?
– Họ Châu mổ 72 con trâu. Họ Thẩm giết hết 187 con chó – Phán quan tra bộ rồi tâu.
– Cho họ Châu đầu thai làm trâu 72 kiếp, còn họ Thẩm đầu thai làm chó 187 kiếp, thường mạng cho đủ số, rồi đầy làm Ngạ quỷ (ma đói).
Án thứ 29
Phán quan đọc án kế:
– Họ Vân ở huyện Thạch Thủ, mới tập tành làm thầy địa lý. Họ Hà ở huyện Võ Lăng làm thầy bói và xem tướng.
Tần Quảng Vương :
– Họ Vân làm thầy địa lý mập mờ, chỉ xấu nói là tốt, tốt nói là xấu, làm sai sách địa lý. Còn tên họ Hà coi bói coi tướng, coi không thấu đáo, đoán hoạ phước lung tung mà cũng đòi khoe tài thiên văn. Coi số coi tướng có sai cũng không đến đỗi hại người, mà chỉ mắc tội với trời. Còn thầy địa lý lôi thôi tuy không mắc tội nơi trời mà làm thiệt hại cho người, làm cho gia chủ phải dời nhà đổi cửa tổn hao tài sản, lại làm động thổ động địa cho người mắc hoạ, hoặc thiệt hại nhà cửa tính mạng, hoặc tuyệt tự, đó mới là tội lớn, chứ gạt gẫm người mà ăn tiền là tội nhỏ. Như vậy, phải tính nó đã làm hại bao nhiêu nhà, thì bắt nó đầu thai làm súc vật mà bồi thường cho đủ số, rồi sẽ giam vào Địa ngục A tì.
Còn thầy coi số coi tướng, quen thói nói láo, gạt người mà ăn tiền, sau lưng người ta, lại giận cho ít tiền mà chửi thầm. Chẳng hề dạy ai làm việc thiện cho khỏi họa mà được phước. Phạt nó đầu thai làm thằng câm mà đi ăn mày tới ba mươi tuổi chịu lạnh chịu đói mà chết. Rồi xuống đây sẽ xét lại.
Án thứ 30
Phán quan đọc án kế:
– Bảy tên học trò phạm tội, tên thứ nhất họ Văn ở huyện Bành Trạch, tên thứ hai họ. . .
Diêm Vương gọi :
– Bảy tên học trò lên đây. Trẫm coi các ngươi đều là có ăn có học từ hồi nhỏ, lo thi đậu mà mong hưởng sang giàu, song có hiểu chút ít đạo lý thánh hiền gì chăng ?
– Cha mẹ với anh tôi dạy chúng tôi hồi bé – một tên thưa – lo học mà đi thi, trông cho thi đỗ cho vinh hiển, ở nhà sang, sắm đất sắm ruộng cho nhiều. Thầy chúng tôi cũng dạy thế.
– Trẫm nghĩ các ngươi đều có phước căn từ trước, thiệt là rất may. Thứ nhất may được làm trai. Thứ nhì may không tàn tật. Thứ ba may được tính thông minh, thứ tư may được đậu vào trường học sách Thánh hiền. Được bốn điều may ấy mà quên đi căn tu kiếp trước. sao chẳng nghĩ đã đứng vào hàng “ Sĩ”, là hơn nghề nông, nghề công, nghề thương. Bởi nghề nông bỏ công sức mệt nhọc làm ruộng rẫy, thức khuya dậy sớm cực khổ, tay chân chẳng rảnh rỗi, ăn uống rồi, còn thừa bao nhiêu thì bán cho đời, ai được ăn hạt cơm hạt gạo của nhà nông, điều là nhờ nông phu đổ mồ hôi sôi nước mắt, mới có gạo ấy. Còn nghề công làm ra các đồ khí cụ gia dụng mà bán cho người, thiên hạ đều nhờ cả. Còn nghề thương xuống biển lên nguồn, chở chuyên hàng hoá, mà bán cho đời dùng không bị thiếu hàng. Như vậy ba nghề ấy đều có công với đời. Còn các ngươi chiếm nghề đứng đầu là “nhất sĩ”, có công chi với đời chăng ? Các ngươi hiểu ý nghĩa nghề “ Sĩ ” là thế nào chăng ? Bởi trăm việc người đời phải cầu “ Sĩ ” mà nhờ vả dạy dỗ. Song ngưòi đời nhờ vả được gì ở các ngươi ? Các ngươi đã làm được việc gì có ích cho đời ? việc chi ?
Té ra các ngươi mỗi ngày làm hao của trời đất, tiêu xài tiền bạc, lụa là vải vóc của triều đình. Các ngươi chỉ biết các việc chơi bời : đàn ca, cờ tướng, làm thơ, uống rượu. Ăn mặc cho nho nhã, dạo chơi cho khoái lạc. Lại còn ra vào chốn nha môn, chuyên lãnh phần lo lót, hăm dọa hàng xóm, thẳng sửa ra cong, cong sửa ra thẳng, làm hủy hoại sự công bằng, các việc độc ác hại đời chẳng kể xiết!
Nếu gặp may được thi đỗ làm quan, nắm quyền cai trị thì thừa cơ ỷ thế hốt cho đầy túi tham. Mượn cái oai triều đình, trên dối chúa dưới hại dân. Vua trên mở kho ban ơn rộng, bị bọn các ngươi ăn gian nên lê dân bá tánh hết được nhờ. Dân nghèo chịu nộp thuế sưu, vì các ngươi cắt xén lạm vào nên triều đình thiếu hụt. Trăm mưu nghìn kế cho lợi nhà, ăn cho mập thây chứ không lo việc lợi dân, lo tu sửa phong hóa cho hết tệ lậu, hủ tục. Không thức khuya dậy sớm mà lo lập thế an dân, lại cố ý bày mưu mà chờ hối lộ.
Không cần lễ nghĩa, chẳng hề tu đức thanh liêm, làm điều sai trái sao chẳng nhớ đến người xưa làm chức tú tài lo cho đời, gánh vác việc thiên hạ. Còn các người đậu chức tú tài thì mong ăn của thiên hạ đem về cho mình! Còn việc này đáng ghét lắm : bình thường hay khoe mình là trung hiếu liêm khiết, thấy ai làm một điều không tốt, thì mắng nhiếc hết lời! Tới phiên mình thì quên trung hiếu liêm khiết, bỏ trôi theo dòng nước, khi trước mắng người không tốt, nay cũng làm vậy thì ai mắng ? Sao gọi là biết tu đức, mà xưng là kẻ Sĩ ?
– Tôi có công dạy học trò, cũng hữu ích cho đời – một tên tâu.
– Ngươi có quả thiệt như đức thánh Mạnh Tử, lấy hiếu lễ trung tín mà dạy học trò sao ? Chẳng qua là dạy cầm chừng, chiếu lệ mà hại đệ tử, cả ngày lo ăn thịt, rượu chè cho say sưa ; không công mà hưởng lộc, tội lỗi chẳng ít, còn kể công sao ? Ngươi có phải họ Ngu ở huyện Tương Dương chăng ?
– Dạ, phải.
– Ngươi là thầy dạy học, sao còn dốt quá, lí lẽ không thông. Có kẻ hỏi ngươi rằng : sát sinh có tội chăng ? Ngươi nói : không tội gì, còn lấy Kinh Phật ra nói bậy bạ : bất sinh bất diệt, nghĩa là không sát sinh thì nó chẳng được đầu thai kiếp khác! Ngươi mượn kinh mà giải thích nghĩa xằng bậy, mà xúi người sát sinh, thì mang thêm ba tội nặng.
Một là mượn câu kinh mà giải thích nghĩa bậy. Còn tội thứ nhì là xúi cho người ta sát sinh, những kẻ ngu dốt ưa sát hại, nghe ngươi giảng vậy, nó càng sát sinh hơn nữa. Tội thứ ba là nói nghĩa ngược ngạo không chuẩn. Nếu nói nghĩa ngươi giải thích đó, thì phải gọi là “bất diệt bất sinh” mới đúng. Còn câu kinh nói : “bất sinh bất diệt”, mà ngươi dám đảo lộn chữ nghĩa như vậy ?
Huống chi kiếp này, ngươi nhạo báng thánh hiền tiên Phật, kể tội không hết! Học trò phạm các tội khác còn thương tình dung chế được. Riêng tội chê bai các vị tổ tam giáo ( Khổng tử, Lão Tử, Đức Phật Thích Ca) thì thiên luật không dung. Quỷ Dạ xoa, dẫn họ Ngu, đến ngục Ác khuyển, cho bầy chó dữ xé thây mà trị tội kiêu ngạo với tam giáo.
Còn tên học trò kia hay làm thơ trăng hoa, ca ngợi ái tình, nói lời dâm đãng cho gái trai động lòng sinh dâm loạn, gây hư hoại thuần phong mỹ tục, tội ấy rất nặng nề, trước đánh đòn tám chục roi sắt, rồi kéo lưỡi cắt môi, giam vào Địa ngục với họ Ngu.
Còn năm người kia tuỳ theo tội nặng nhẹ, cho đi đầu thai. Ba người tội nặng cho đầu thai làm lừa, làm chó. Còn hai người tội nhẹ đầu thai làm người tàn tật : câm, bại liệt, đui mù, cùi lở. Đến lĩnh giấy, giải qua vua Đông Nhạc, đi đầu thai lập tức.
Án thứ 31
Phán quan đọc án kế :
– Họ Viên ở huyện Quan San, lập tiệm cầm đồ, ăn lời quá đáng, không hề nương tay. Trong nhà còn cho vay, cho vay bạc non, thu vào bạc già. Trong tiệm dùng cân hai đáy (cân gian ), cho ra thì dùng trái cân nhẹ, thu vào đổi trái cân nặng. Vì lẽ ấy nên giàu nứt đố đổ vách. Làm cho trời giận thần hờn. Từng bị Hoả tinh đốt nhà, đó là lửa trời sa xuống thiêu sạch gia sản bất nhân. Ba mươi lăm tuổi chết yểu, vợ con cũng thổ huyết chết luôn!
Tần Quảng Vương phán :
– Ăn lời quá phép, đã phạm tội với trời. Huống chi cân gian lận, lường gạt của người cho nặng túi tham. Tưởng gạt người hóa ra gạt mình, mong hại đời chẳng ngờ hại mạng mình. Cả đời lường gạt, vậy chứ của cải đó giờ còn hay không ? Chẳng giữ lương tâm, ba đời chịu khổ. Tuy bị cháy hết nhà cửa, mà chưa hết tội. Giao qua vua Đông Nhạc : phạt đầu thai làm ngựa đưa thư, bị người vừa cưỡi vừa đánh liên tục, chạy kiệt sức cho tới chết. Đầu thai làm ngựa ba kiếp như vậy, mới được đầu thai làm người nghèo.
Án thứ 32
Phán quan đọc án kế :
– Họ Hồng ở huyện Thiện Hưng cha làm chức Điển lại, ở huyện Võ Xương, hồi nhỏ họ Hồng xung khắc với cha, tức mình cạo tóc vào chùa. Sau phạm luật bị tẩn xuất, về để tóc lại, ăn mặn như kẻ ở thế tục. Gặp ai cũng gian xảo, không chút thật thà. Sau lưng hay nói xấu việc của người! Hay soi mói chuyện tư tình của người khác và những phụ nữ trăng hoa, xúi giục gây gổ. Miệng lưỡi thêu dệt nhiều điều, làm những chuyện trái phép.
Tần Quảng Vương quát :
– Tên này tội nặng khó dung tha.
Phán quan tâu :
– Tên này không ác gì cho lắm, chỉ ác khẩu mà thôi.
– Tội ác khẩu có ba điều, tên này phạm hết. Nói láo về những việc tục tĩu, là phạm chữ Dâm. Nói láo thêm thắt cho người ta giận nhau mà đâm chém, là chữ Sân si. Nói láo gạt người mà lấy của, phạm chữ Gian tham. Một việc nói láo, mà gây ra chữ dâm, chữ si, chữ sân, chữ tham, chữ giao đạo. Phán quan còn nói tội ác khẩu là tội nhỏ sao ? Truyền xẻ miệng cắt môi, chẻ răng, kéo lưỡi ra rộng như thửa ruộng rồi cày bừa, mà hành tội ác khẩu, tuy còn sống đã phạt tuyện tự, mà chưa hết tội nay phạt giam vào Địa ngục, chưa được đầu thai.
Án thứ 33
Phán quan đọc án kế :
– Vợ họ Uông, là nàng Trình Thị ở huyện Giang Hà. Nguyên kiếp trước ăn chay, kiêng sát sanh, làm lành, hay bố thí, có hiếu với mẹ chồng nuôi đau bệnh hết lòng hết sức, bởi chưa đủ công hạnh sinh Thiên, nên cho đầu thai kiếp này mà hưởng phú quí, làm con nhà quan giàu sang phú quý, lại gặp chồng lương thiện, sinh ba trai hai gái, định mạng sẽ sống 82 tuổi, không bệnh mà mãn phần.
Không ngờ do cha mẹ cưng chiều quá, vì con quan, nên quen thói đỏng đảnh từ hồi nhỏ, nhà có tôi tớ nên quen thói làm chủ, hay mắng nhiếc hành hạ kẻ dưới, tập tính nhiều năm đã quen nên độc ác lắm. Đến khi có chồng hiền hậu, thì ỷ thế giàu sang nên chuyên quyền, ăn hiếp chồng quá đáng. Vả lại quen thói ăn sung mặc sướng, nên sát sinh hại mạng rất nhiều. Cho vay ăn lời quá đáng, khắc nghiệt với tá điền, đã bắt người ta làm không công, mất mùa cũng không châm trước chút nào! Kiếp nay chẳng hề bố thí cho bà con thân tộc nghèo đồng xu nào, huống chi là bố thí cho người dưng. Ngày nào cũng chửi tôi tớ. Đánh chết đứa tớ gái là Vương Nguyệt Mai, lại còn khoét mắt đứa tớ trai là Trương Hưng Nhị, khiến hắn bị đau nhức tới chết. Lại còn phạt đứa tớ gái khác là Ngô Hà Hương, bắt ăn cả tô đậu nành sống, sình trương bụng ba ngày mà chết! Còn nhiều đứa đầy tớ khác bị thương tích, tai mũi tay chân môi miệng đều mang sẹo hết!
Có người đem sự báo ứng nhân quả mà khuyên giải thì Trình Thị ỷ con nhà quan lớn, nên mắng nhiếc kẻ giảng nhân quả và nói rằng : “Ta có bao giờ bố thí cho ai đâu, mà giờ giàu sang, ăn sung mặc sướng, con cháu đầy nhà, phước đầy ra đó ? Ai tin được lời ngươi nói, phải tu nhân tích đức mới được phước được thọ ?”
Nói rồi đuổi người đó đi lập tức. Mấy lời ấy Táo quân cũng đã tâu tới Thiên đình, và lại mỗi tháng gửi giấy về cửa Thiên tư mạng chính, đều đều đã ghi tội Trình thị rất nhiều. Các hồn oan cũng kiện cáo nữa. Ngọc Đế truyền giảm thọ ba kỉ ( 36 năm), cho bắt hồn Trình Thị xuống trị tội nên mới 46 tuổi mà đã chết.
Tần Quảng Vương phán :
– Không kính trọng chồng, là tội thứ nhất theo luật trời không tha được. Huống chi độc ác khắc nghiệt với tôi tớ, hại oan ba mạng. Tính độc ác hơn cọp không phải lòng người, lại phạm nhiều tội khác, đáng giam vào Địa ngục, muôn kiếp chưa cho đầu thai.
Phán quan tâu :
– Trình Thị nguyên kiếp trước tu hành có hiếu với mẹ chồng lắm. Còn đời nay, người con gái lớn Trình Thị, thấy người mẹ hỗn hào với cha, và ăn ở độc ác, nên tu hành tụng kinh niệm Phật, làm phước bố thí, mà cầu cho mẹ tiêu tội, cũng như tu thay cho mẹ nó. Vậy xin vương gia cho luân hồi trả quả, chừng hết nợ trước sẽ xử nữa.
– Nếu con gái nó tu thay như vậy, thì Trẫm tha tội Địa ngục, cho được đầu thai. Kiếp thứ nhất cho nó đầu thai làm đàn bà nghèo khổ đói rách cả đời, cho hồn Hà Hương nhập vào bụng nó làm quỷ thai (ung thư) đau đớn khôn xiết, kéo dài tới ba năm phát bệnh điên, tự mổ bụng mình và cắt ruột mà chết, đó là trả quả báo bắt Hà Hương ăn đậu nành sống trương sình bụng mà chết.
Kiếp thứ nhì, đầu thai làm con câm, ghẻ lở khắp mình đi ăn xin tới 50 tuổi, ăn cắp gạo nhà họ Trương, bị con gái họ Trương ( là hồn Vương Nguyệt Mai đầu thai ) đánh chết, mà đền oan mạng kiếp trước.
Kiếp thứ ba, làm con gái đến năm 18 tuổi, bị tên du côn (là hồn Trương Hưng Nhị đầu thai), đâm mù cặp mắt và cắt đứt gân, lết ngoài chợ xin ăn tới chết, thì mới đền đủ ba mạng. Trong ba kiếp ấy hành tội câm, ghẻ lở, đói rét cực khổ, đi ăn xin, là đền tội ăn hiếp chồng và làm giàu bất nhân đó. Như trong ba kiếp chịu khổ, biết ăn năn, sống hiền lành, thì sẽ châm chế cho các kiếp sau.
Trình Thị tâu rằng :
– Chồng tôi khờ dại quá, chẳng biết lo việc nhà, tôi không la mắng sao được ? Xin vương gia xét lẽ phải mà khoan dung.
– Đàn bà có đạo tam tòng, khi còn ở nhà, theo quyền cha mẹ, xuất giá theo quyền chồng, chồng chết theo quyền con trai, phần phụ nữ không được làm chủ. Chồng ngươi là kẻ hiền hậu, ngươi lại chê rằng khờ dại, mà hỗn hào khinh dẻ trăm bề. Đến nước này. mà ngươi chưa biết tội sao ?
– Tội tôi hỗn với chồng đã đáng. Còn như đánh tôi chửi tớ, là tại chúng nó làm công việc không xong, mà lại ăn vụng lười biếng trăm bề hư nết. Vả lại chúng nó tính ngang ngạnh, là tại chúng không vâng theo, ngu mê ám chướng không hiểu việc chi. Tại chúng nó chướng mắt như vậy, chính là nó bảo phải đánh nó, xin vương gia xét lại.
– Đời nay làm kẻ hầu hạ, tâm tính chúng nó không phải như người tôn quý. Hoặc là hồn cầm thú đầu thai, hoặc người ác đầu thai lại, bị mất tính thông minh, bản tính ngu độn theo đúng hàng hạ tiện. Và lại đầu thai làm con nhà hèn hạ dốt nát, thì tính nó thô tục ngang ngạnh, cứng đầu cứng cổ, ngu mê ám chướng, là lẽ trời định tự nhiên. Mình là người bề trên, công bình thì phải từ từ mà dạy dỗ, đến việc làm, phải giải thích cho rõ ràng, và dặn đi dặn lại. Dầu chúng nó lầm lỗi, cũng tuỳ tội nặng nhẹ mà răn, lẽ nào nóng nảy mà đánh chửi mãi, đánh quá khiến cho chúng nó hoảng hồn mà phát điên.
Sao chẳng xét, chúng nó cũng là con cái nhà lành, vì nghèo quá mới cắt ruột mà bán cho mình làm tôi mọi, tuy tiếng là chủ với tớ, chứ chúng nó cũng như con cái trong nhà, việc ăn mặc, đau ốm, khoẻ mệt mình phải biết thương chúng nó. Bởi lẽ ấy tớ trai cũng như con trai nuôi, tớ gái cũng như con gái nuôi. Lẽ nào ác độc mà khắc nghiệt với chúng ? Giả sử con cái ngươi bị người đánh chửi, ngươi có đau ruột hay không ? Còn ngươi cho tôi tớ ăn không no, mặc không lành, lại nỡ lòng nào hành hình trái phép, hại tới ba mạng. Thiệt là không sợ luật trời, còn dám nhiều điều cãi cố. Mau dẫn nó đi đầu thai.
Án thứ 34
Phán quan đọc án kế :
– Họ Châu ở huyện Hướng Dương, từ hồi nhỏ mở tiệm bán hàng xén, các trái cây, đồ đồng thiếc và các thứ lặt vặt. Thường dùng giấy có chữ viết mà gói các món đồ bán. Bình thường hay lấy giấy có chữ viết mà lau chùi bàn ghế, chỗ nào nhơ uế, cũng lấy giấy chữ mà chùi, và quét giấy đổ vào nơi bẩn thỉu suốt 24 năm như vậy.
Còn vợ họ Huỳnh, là Khương Thị, ở huyện Hiếu cảm có hai đứa con đi học, mỗi ngày Khương Thị lấy giấy có chữ viết để bôi hồ lót đáy giầy, hoặc cuốn lại để hút thuốc, hoặc vò nát làm mồi nhóm lửa… như vậy năm năm.
Còn họ Mai ở huyện Táo Dương, là Tú tài dạy học trò lại hay đạp lên giấy có chữ, các học trò bắt chước theo, cũng huỷ giấy có chữ, chẳng biết trọng chữ nghĩa, lại lấy giấy có chữ lau chùi đồ đạc, hoặc đốt mà hút thuốc, làm thường vậy đến 22 năm. Ba tên phạm ấy đồng tội.
Tần Quảng Vương phán :
– Trong sách có chữ trời- đất -quỷ -thần, tên ông bà cha mẹ, trong giấy viết chữ đều có. Nếu không chữ, thì đạo lý sao truyền dạy cho hậu thế, sao có kinh sách lưu truyền cho đời ? Nếu đạp huỷ giấy có chữ, khác nào đạp huỷ trời đất, quỷ thần, thánh hiền, ông bà, cha mẹ. Họ Mai nhờ chữ nghĩa mà hiển vinh, nhờ chữ nghĩa mà no ấm, mà dám đạp huỷ giấy chữ đến 22 năm, khiến cho các học trò bắt trước, tội ấy do ngươi hết. Đưa ba phạm ấy đánh 100 trượng, rồi tùy nghiệp cho đầu thai thành kẻ ngu dốt.
Án thứ 35
Phán quan đọc án kế:
– Họ Dư ở huyện Miễn Dương nhà cũng khá, mà sống bất hiếu. Nuôi vợ con ăn cao lương mỹ vị, quần áo đẹp, còn cho cha mẹ ăn mặc gọi là cho có. Cha mẹ hắn buồn trách, hắn lại trả lời rằng : “Cha mẹ có để lại gia sản gì đâu, mà trách nuôi ăn nuôi mặc không xứng đáng ?” Nó lại còn mắng thêm nhiều thứ nữa, làm cho cha mẹ nó buồn rầu, tức tối cho đến khi chết.
Tần Quảng Vương phán :
– Họ Dư tuy dốt nát, nhưng không lẽ không biết ơn cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng, lại quay lại trách cha mẹ không để lại gia sản. Không nuôi cha mẹ, mà lại nuôi vợ con tử tế. Vậy vợ con có để gia sản cho ngươi sao? Ngươi bất hiếu thiệt không bằng súc vật. Phạt nó đầu thai làm trâu ba kiếp, ra sức cày ruộng mà nuôi thiên hạ, chết rồi còn bị chúng xẻ thây, mà đền tội bất hiếu.
– Tên này có nhặt được một trăm lượng bạc, trả lại cho kẻ làm mất, đền ơn nó cũng không nhận, nên kẻ xui xẻo mất bạc lại thành ra may, khiến trong nhà đó không bị thiệt hại. Âm đức ấy cũng đáng giảm bớt tội ngỗ nghịch – Phán quan tâu.
– Như vậy thì tha khỏi phải làm trâu ba kiếp, cho đầu thai làm ăn mày chết đói hai kiếp. Nếu biết tu xuống đây xét lại.
Án thứ 36
Phán quan đọc án kế:
– Vợ họ Lý là Trần Thị ở huyện Huỳnh Mai, thủ tiết thờ chồng, mà bất hiếu với cha mẹ chồng. Cha mẹ chồng già yếu bệnh tật, mà Trần Thị cho ăn mặc sơ sài, đến đỗi đói lạnh mà chết.
Diêm Vương phán:
– Đàn bà có chồng, thì theo quyền chồng, cha mẹ chồng là cha mẹ ngươi. Ngươi đã biết thủ tiết khi chồng qua đời, thì cũng phải biết ăn ở có hiếu với cha mẹ chồng, thay mặt cho chồng mà nuôi cha mẹ, thì tiết hiếu mới song toàn. Được thế thì khi còn sống vua quan phong tặng danh tiếng, chết rồi lại được thành thần; mới là chí thiện, quỷ thần nể phục. Sao lại phạm tội bất hiếu, đáng đoạ Địa Ngục.
– Nàng này góa chồng hồi còn xuân, thủ tiết ba mươi mấy năm cực khổ, xin vương gia khoan dung cho – Phán quan tâu.
– Trẫm cũng vì sự thủ tiết, mở đường mọn cho nó, thôi cho được đầu thai làm người, nhưng sẽ bị người ta phanh thây mà chết, trừ cái tội bất hiếu cha mẹ chồng.
Án thứ 37
Phán quan đọc án kế:
– Họ Hồ ở huyện Lâm Lương đậu Tú tài, tính nết bạc bẽo, ác độc, hay nghe lời vợ mà ngỗ nghịch với song thân. Lại thấy anh em thật thà dốt nát, nên khi chia gia tài dành lấy phần tốt, để lại ruộng xấu, nhà hèn, đầy tớ dở cho người anh. Còn chia phần cho người em rồi, sau khi em chết, em dâu là Lý Thị không con, nên nuôi con người anh cả làm con mà lập tự cho chồng. Họ Hồ muốn đoạt gia sản của em dâu, mới vu oan rằng : Lý Thị mang tiếng thủ tiết mà tư tình chửa hoang, ngụy tạo bằng chứng. Thuê bà mụ xét nghiệm, nói Lý Thị thật sự có thai. Lý Thị tức mình, mổ bụng trước mặt quan mà chết, làm cho nhiều người làm chứng đã ăn tiền, đều mắc họa cùng với bà mụ. Như vậy họ Hồ bị ba tội nặng, xin Vương gia xử mà răn đe cho đời.
Tần Quảng Vương hỏi :
– Họ Hồ đậu Tú tài, thì đã thông kinh Thi, kinh Lễ, sao mà bất hiếu bất lễ đến thế ?
Hắn tâu:
– Tôi hồi còn nhỏ có học kinh Thi, kinh Lễ cũng biết hiếu cha mẹ, thương anh em. Tại vợ tôi độc ác, nó xúi các việc bất hiếu bất lễ. Tôi dại nghe lời, mong nhờ vương gia rộng lượng.
– Tội vợ ngươi Mã Thị, ông Táo và Du thần, tâu cáo lên thiên đình đã lâu, tự nhiên sẽ có hình phạt thích đáng. Còn ngươi, ngươi không lẽ chẳng biết, chồng nắm quyền vợ, vợ phải nghe lời chồng dạy, lẽ nào chồng nghe lời vợ dạy hay sao? Nếu ngươi thiệt tình hiếu lễ, vợ ngươi lẽ nào dám bất hiếu, vô lễ. Nay ngươi bất hiếu với cha mẹ, khinh anh, hiếp đáp em dâu thất thế, mà còn nỡ nào vu oan khiến cho tiết phụ liều mình tự vẫn? Thiệt tính độc hơn rắn, hơn bò cạp, không bằng loài súc sinh. Tống hắn giam vào Địa ngục A tỳ, hành tội liên tiếp không dứt, quăng lên núi đao, rồi dìm xuống ao nước sôi, xay giã, nấu vạc dầu, thiêu ra tro, rồi hoàn hồn lại như cũ, tiếp tục hành hình như vậy dài hạn, chưa tính đến chuyện đầu thai.
Án thứ 38
Phán quan đọc án kế:
– Họ Lưu ở huyện Bành Ly, hồi nhỏ học nghề thợ mộc, hay yểm bùa mà hại chủ nhà, hai mươi năm như vậy. Hay chửi trời mưa nắng, vì làm hỏng việc của nó.
Diêm Vương phán :
– Ngươi làm thợ mộc, yểm bùa hại chủ nhà. Tuy ngươi yểm người không nổi, chẳng hại được chủ nhà. Song cái lòng dạ độc ác của ngươi, quỷ thần đã ghét lắm. Huống chi mưa gió, mây sấm, trời đất đều do các vị thần linh cai quản. Sao ngươi dám mắng mưa chửi gió xúc phạm trời đất thần linh? Vì cớ gì mà độc ác và điên cuồng đến thế ? Trời đã sai thiên lôi đánh ngươi chết, mà vẫn chưa hết tội. Nay phạt ngươi làm ăn mày câm và điếc, mãn kiếp chết xuống đây sẽ tính tiếp.
Án thứ 39
Phán quan đọc án kế tiếp :
– Họ Từ ở nước Vệ, huyện Kim Sàn. Hồi nhỏ ngang ngược, không tin sự báo ứng tội phước nên không kính thánh thần. Gặp thầy chùa, thầy tu, hoặc ăn mày, đều không cúng dường bố thí, mà lại mắng thêm.
Lòng dạ bất nhân, hay giết rùa, đập rắn, giết hại côn trùng, dế rất nhiều. Say rượu hay phá quán, đánh lộn ngoài chợ. Có lúc kia say rượu, đánh chết đứa con đẻ mà không biết xót thương.
Tần Quảng Vương phán :
– Không có lòng nhân, không biết thương xót, là chẳng phải con người. Người thường thấy đứa trẻ con còn nhỏ, bò gần miệng giếng còn động lòng thương, không chịu được mà bồng bế ra cho xa, huống chi con đẻ của mình mà nỡ đánh chết ? Hổ dữ còn chẳng nỡ ăn thịt con, lòng thằng này thiệt độc ác hơn hổ, tuy ở Dương gian đã bị giam vào ngục cho tới rũ tù, nay xuống đây tội vẫn còn đầy. Quỷ sứ! Quăng hắn vào vạc dầu và đốt cho đáng đời, khi nào nghiệp hết rồi sẽ cho đi đầu thai làm súc vật.
Án thứ 40
Phán quan đọc án kế:
– Họ Nhan ở huyện Quan Hoá, tính ở không tốt, hay giấu việc tốt của người, mà chỉ nói việc xấu của người ta. Kể nói cho sướng miệng, không cần biết việc có thật hay không. Muốn chọc cho người ta đau, bất kể nói chơi hay nói thiệt. Làm cho đàn ông con trai mất tiếng khen, đàn bà con gái mang danh xấu, những tội ấy kể không xiết, xin nghị phạt tội cho mau.
Tần Quảng Vương phán rằng:
– Họ Nhan độc mồm độc miệng, bất kể đến danh dự người khác, giam vào ngục cắt lưỡi.
Án thứ 41
Phán quan đọc án kế:
– Họ Giám ở huyện Nghị Thành, đậu Tú Tài, có tài ăn nói, nhưng hay kiêu ngạo, mắng nhiếc người và hay nói những câu mang tính tục tĩu, dâm dục. Thường lấy các câu trong kinh sách, giải thích thành nghĩa bậy bạ mà cười.
Tần Quảng Vương phán :
– Ngươi đọc sách Thánh hiền, lại dám giễu cợt lời Thánh hiền. Có tài trí thông minh, không giúp việc tốt cho đời, lại đem tài trí mà giễu cợt Thánh ngôn, nói kiêu ngạo cho trời đất ghét, mà tổn đức mình, làm cho người ta cười một chút, không ích chi cho mình mà chỉ chuốc họa, thiệt là ngu quá! Cho đầu thai làm đứa ăn mày câm cho hết nói nữa!
Phán quan tâu:
– Họ Nhan với họ Giám, đều phạm khẩu nghiệp, tội ấy cũng nhỏ xin Vương gia khoan dung.
– Tội lời nói tuy là nhỏ mọn, nhưng mà phô bày việc tế nhị của người khác, và lại, chưa chắc là sự thật, chẳng qua nghe đồn mà nói ra như chứng kiến thật. Những người hay nói chắc như đinh đóng cột, chưa chắc đông người tin, mà kẻ nói bóng nói gió điều chi, lại khiến lắm kẻ tin sái cổ. Huống chi thiên hạ ưa nghe chuyện mới chuyện lạ, phân nửa không tin, nhưng số người tin cũng hết phân nửa, làm cho người ta mất danh dự, đến nỗi trên ông cha mang nhục, dưới con cháu xấu hổ. Lỡ khi nói khiến người ta tức tối, hổ thẹn mà liều mình, thì tội đó lớn vô cùng, sao gọi là lỗi nhỏ. Rồi tội nhạo báng Thánh hiền, mắng nhiếc kẻ khác, sao lại cho là nhỏ? Ta đã phán rồi, y án, không bớt giảm chút nào.
Án thứ 42
Phán quan đọc án kế:
– Vợ họ Lương là nàng Cát Thị ở huyện Dực Dương. Tính hay nghi ngờ, lòng dạ hiểm độc, hay xúi cho người ta oán ghét nhau, làm cho thân quyến chia lìa, cốt nhục phân ly, như là: cha con mẹ con bỏ nhau, anh em vợ chồng xa nhau. Phàm gặp đàn ông con trai ai nó cũng nghi họ làm việc xấu, nếu có việc gì khiến nó mất lòng, thì vu oan cho người ấy là loạn luân. Gặp phụ nữ cũng hay sinh nghi, nếu bất bình chuyện gì thì liền vu oan rằng nàng ấy ngoại tình, lang chạ. Những cô gái trinh trắng hoặc phụ nữ thủ tiết, đều bị nó vu oan, dẫu là bà con hoặc bạn bè chí thân, nó cũng không tha nữa. Nó từng vu oan cho Chương Thị, Chương Thị tức mình phát bệnh mà chết! Lại từng vu oan cho người em trai phía bên chồng rằng chú ấy muốn cưới con gái ruột! Người em chồng tức mình, nhảy xuống sông mà tự vẫn. Xin Vương gia định tội răn đời.
Tần Quảng Vương phán :
– Cát Thị tính nết đa nghi, lòng độc như rắn bò cạp, lưỡi bén như gươm, hại người ta mất danh dự, đến mức phải chết oan. Trong đám phụ nữ có thứ bất lương ấy, không xử nặng không được. Truyền cắt lưỡi, đục răng, cắt môi giam tại Địa ngục A tì mà hành hạ mãi, chưa tính đến chuyện đầu thai. Phán quan! Thâu hồn đứa con trai với đứa con gái nó về đây, cho sinh về nhà khác, cho tiệt dòng ác khẩu.
Phán quan tâu:
– Chồng nó là họ Lương, hiền hậu làm lành, có khắc bản kinh Thái Thượng Cảm Ứng in mà tặng cho người, tới 7.534 cuốn, khuyên dạy người đời, cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh, công đức rất lớn, không tuyệt hậu người này được ạ.
– Chồng ngươi ăn ở hiền lành, làm nhiều việc thiện, người thiện thì phải có hậu, nên để cho hai đứa con sống tiếp. Còn ngươi tội ác thái quá, truyền giam vào Địa ngục.
Án thứ 43
Phán qua đọc án kế:
– Phan Thị nhan sắc xinh đẹp mà tham dâm, chê chồng xấu xí, bỏ chồng đi theo các tay ăn chơi đàng điếm, khi sống đã bị hành ghẻ lở khắp mình, đau đớn mà chết.
Tần Quảng Vương phán :
– Nhân duyên vợ chồng là do nghiệp duyên từ kiếp trước, giàu nghèo cũng do phúc tội kiếp trước quy định. Ngươi là thứ đàn bà xấu nết, không biết hổ thẹn, chê chồng xấu mà bỏ chồng, lại ngoại tình lang chạ. Thấy chúng nó giàu sang mà ham, ỷ mình có nhan sắc mà làm bừa, chê chồng vẻ ngoài xấu xí không trọng đức bên trong, thứ lăng loàn mà dám chê người chân chất. Khinh chồng già mà mê trai trẻ, trách cha mẹ gả cưới không xứng lứa vừa đôi. Thờ chồng không trọn đạo, hoang dâm chẳng xứng làm người. Tội tà dâm không thể dung. Phạt đầu thai làm lợn nái hai kiếp, cho đáng tội bỏ chồng theo trai, rồi xuống đây sẽ xử nữa. Truyền quỷ sứ cho máy răng sắt nhai nó, rồi mới được đầu thai.
Án thứ 44
Phán quan tâu rằng :
– Các án hôm nay đã xử xong rồi. Còn Thiện sĩ Lâm Tự Kỳ bị bắt lầm, bây giờ tính thế nào thưa Vương gia ?
Vua Tần Quảng mời hồn Lâm Tự Kỳ lại, phán rằng :
– Nay đưa ngươi hoàn hồn sống lại, phải cố gắng lấy lòng thành tu hành cho tinh tấn. Trẫm nãy giờ xử các án đó, ngươi đều hiểu thấu hết chăng ?
– Vâng, tôi hiểu – Tự Kỳ tâu.
– Các sai dịch, đưa hồn thiện sĩ qua vua Đông nhạc, lãnh giấy hồi dương để thiện sĩ thuật lại cho đời nghe các án Trẫm xử đó.
– Tôi tối dạ, không nhớ hết các án – Tự Kỳ lại tâu
Diêm Vương nhìn Phán quan mà nói rằng :
– Cho thiện sĩ một ngụm thuốc “phát huệ” ngậm trong miệng mà hồi dương, thì sẽ nhớ mọi điều không thiếu sót.
Tự Kỳ nhận ngụm thuốc “phát huệ” rồi tâu rằng :
– Tôi cám ơn Vương gia cho sống lại, từ nay, xin quyết chí tu hành. Còn các vị thần sở tại bắt nhầm tôi, e bị tội lỗi xin vương gia rộng lượng tha cho chư thần.
– Trẫm y lời miễn chấp. Thiện sĩ hồi dương cố gắng hết lòng hành thiện, nhớ lời Trẫm dặn.
Nói rồi truyền bốn quỷ sứ, đưa hồn Tự Kỳ, về tới cõi dương gian, giao cho các thần sở tại, đem hồn cho nhập xác.
Khi ấy Lâm Tự Kỳ sống lại, như tỉnh giấc chiêm bao, gọi tiểu đồng, người nhà xúm lại cho uống nước trà, trong miệng Tự Kỳ bay ra mùi hương lạ (đấy là hơi thuốc “phát huệ” ). Xóm làng tới thăm đông lắm, đều hỏi thăm việc Âm phủ mà nghe, vì từ xưa đến nay, chưa thấy ai chết đi sống lại. Tự Kỳ bảo đem giấy mực đến, nhớ lại từng việc, vẽ hình vua Tần Quảng với Phán quan xử 42 án trước Điện Diêm La.
Rồi để các án theo hoạ đồ, đặt tên là cuốn Hồi Dương Nhân Quả. Ai nấy xem thấy đều hãi hùng, kinh sợ, nội trong châu huyện quan dân đều đến xem chuyện lạ, thấy Diêm vương, Phán quan xử các án rất công bằng, mới biết từ xưa đến nay, sự báo ứng không sai sót một mảy may, mới tin Địa ngục rõ ràng, không còn hồ nghi huyễn hoặc, nên nhiều người cải ác tùng thiện. Trong lúc ấy nhằm ngày mồng chín tháng ba, năm Mậu Thìn, trong niên hiệu vua Gia Khánh triều Thanh.
Lâm Tự Kỳ cùng với những người hiền thiện, sao chép cuốn nầy mà cho thiên hạ lưu truyền, lo liệu tiền thuê người khắc bản in.v.v..
NHỮNG CHUYỆN LINH ỨNG DO ÂN TỐNG HỒI DƯƠNG NHÂN QUẢ
(Biên chép các sự linh nghiệm do sách này mà có)
1. Uông Nguyên ở huyện Tiền Đường, có mẹ già, còn y đã ba mươi tuổi, mà không con, cha là ông Tinh Hư, tính khắc bản in Hồi Dương Nhân Quả, chưa khắc được mà đã qua đời. Uông Nguyên muốn cầu cho mẹ được sống lâu và cầu con luôn thể, nên bán ruộng mà thuê người khắc bản in. Mới khắc được nửa cuốn, mà vợ đã có thai, đẻ con trai. Rủ thêm các vị thiện nhân họ Ngại, họ Khởi. v.v… phụ tiền in tới vạn cuốn mà tặng cho người ta. Đêm kia Uông Nguyên chiêm bao thấy hồn cha về khen rằng : “ Con làm đúng ý cha, cha đã siêu thăng về cõi Thiên đàng. Còn mẹ con sẽ được trường thọ. Con và các vị phụ in với con, đều đứng tên vào sổ Thiên tào. Sao gia đạo càng ngày càng khá.
2. Triệu Bích đi thi đậu về, trên đường nằm mộng thấy hồn vợ hiện ra khóc rằng : “Thiếp hay sát sinh, thường làm thịt cua nhiều lắm. Nay hồn xuống âm phủ, bị phạt bỏ vào núi Giải san, bầy cua kẹp ngày đêm khổ sở. Tại âm phủ trọng quyển Hồi Dương Nhân Quả lắm. Thiếp xin cho hiện hồn về, nhờ chàng sao bảy cuốn tặng cho người mà chuộc tội cho thiếp”
Triệu -Bích về tới nhà mới hay vợ chết đã chôn rồi. Liền sao chép sách nầy, mới được hai bản mà đem tặng. Sau đó đi viếng mộ vợ, đêm mơ gặp ông già xưng là thần núi nói rằng : “Vợ ngươi nhờ phước cho kinh, đã đặng đầu thai rồi. ” Nói xong biến mất.
3. Vương Phụng là thầy thuốc huyện Thoại An, kiêng sát sinh, lại hay phóng sanh nữa, và còn thuê người khắc các bản kinh sách khuyến thiện, trong đó có Hồi Dương Nhân Quả. Ngày kia bệnh nặng, chiêm bao thấy hai quỷ sứ bắt hồn dẫn đi được nửa đường, ngó lên thinh không có ba vị, một vị mặc áo vàng nói rằng : “Ấy là Vương Phụng hay khắc bản in kinh sách cho thiên hạ, mau thả hồn ra”
Hai quỷ y lời. Vương Phụng tỉnh dậy thuật lại chuyện, lại mạnh khỏe như thường, nên càng siêng năng lo việc in kinh hành thiện.
4. Dương Sâm là tiến sĩ ở huyện Huỳnh Nham. Lúc chưa thi đậu, thấy trong làng khắc bản kinh Thái Thượng Cảm Ứng và kinh Hồi Dương Nhân Quả mà in tặng cho người. Dương Sâm xét mình ít tiền, thấy bản số 17 chưa khắc, xin chịu tiền nội một tấm ấy thôi. Tối chiêm bao thấy ông thần mách bảo rằng : “Cho ngươi thi đậu đúng theo số bản kinh.” Sau thi đậu tiến sĩ xếp thứ 17. Lấy đó mà suy : khắc bản kinh không luận tiền nhiều ít, quí tại lòng thành.
5. Phương Thời Khả ở huyện Hưu Ninh, nhà nghèo mà hay bệnh.
Gặp người lạ nói rằng : “Ngươi nghèo mà không con, số có 36 tuổi. Nếu muốn được phước, thì phải làm lành. ”
Thời Khả về cố gắng khắc các bản kinh, quyết in cho thiên hạ. Khắc mới phân nửa, bệnh giảm năm phần, khắc xong rồi thì hết bệnh. Sau sanh hai người con trai, lớn đều vinh hiển. Thời Khả cũng được sống lâu.
6. Trần Tông Hiên ở huyện Ngô Môn, năm Canh Thìn triều Vua Gia Khánh, tháng mười một nội xóm trong thành bị lửa cháy. Người trên thành ngó thấy có một người to cao, đứng trên nóc nhà Tòng Hiên mà dập lửa. Ai nấy đồng lấy làm lạ. Không bao lâu các nhà xung quanh đều bị cháy hết, trừ ra một nhà Tòng hiên không cháy! Ai nấy đều hỏi thăm vì cớ nào mà khỏi bị hoả hoạn ? Tòng Hiên nói : “Trong nhà có bản khắc Thái Thượng Cảm Ứng và bản Hồi dương nhân quả, không biết phải nhờ đó mà khỏi cháy chăng?”
7. Huyện Tiền Đường có ông đồ, là Hứa đình Du, hay tụng kinh Cảm Ứng Thiên, để thờ trên bàn, lối xóm noi theo mà sống. Đêm nọ ăn cướp tới đập cửa, tự nhiên chúng nó xây xẩm, không thấy trời đất gì nữa, hoảng hồn chuồn hết. Sáng Đình Du càng cảm ơn trời đất, khắc bản ấn tống, gia đạo ngày càng khá hơn.
(Theo Hồi Dương Nhân Quả)
PHÂN TÍCH
TA THẤY ĐƯỢC GÌ ?
Trên thế gian có vô số con đường, mỗi người tự chọn cho mình một đường đi riêng, một cuộc đời riêng, không ai giống hệt ai. Dù vậy, bất luận là con đường nào đi nữa, thì nó rồi đều sẽ dẫn về một điểm: cái chết.
Cái chết là điểm chuyển giao giữa hai kiếp sống, ở ngay đó, có một sự kiện đặc biệt: diện kiến Diêm Vương.
Nếu bạn cho đó là một truyền thuyết, thế thì đã đến lúc bạn phải suy nghĩ lại, đó là một sự thật. Những ai đã gặp Diêm Vương rồi, 99,99% là không thể sống lại mà kể, vậy nên điều này tưởng chừng như không thể kiểm chứng. Tuy nhiên, thỉnh thoảng vẫn xuất hiện ngoại lệ, có một số người vì các lí do khác nhau mà từng được đến điện Diêm La nhưng lại được hồi dương sống lại. Trong sách này sẽ đơn cử hai trường hợp như vậy, một xảy ra tại Trung Quốc vào đời Thanh, cũng khá lâu rồi, chính là trường hợp Lâm Tự Kỳ bạn vừa đọc. Một xảy ra tại Việt Nam vào thời hiện đại.
Ở cái thời khắc đối mặt với Diêm Vương, có rất nhiều người trong chúng ta sẽ phải run sợ. Không phải vì sợ Diêm Vương, ông ấy không phải là một hung thần tàn bạo gặp là giết, mà ngược lại rất công minh, chính trực. Cái khiến nhiều người sợ, ấy là phải đối diện với cái bản án do chính mình đã tạo ra, công và tội, phước và nghiệp cả một đời tích lũy, đến lúc này sẽ tính sổ.
Với những ai khi còn sống, tin hiểu Nhân quả, sớm đã biết sợ cái thời khắc này, sợ quả báo, thì thường cũng đã có chuẩn bị, sám hối nhiều, tạo phước nhiều, cũng không phải lo gì lắm.
Xong với những ai khi còn sống, không tin hiểu Nhân quả, không quan tâm đến Đạo lý gì hết, sống theo bản năng hoặc bị định hướng bởi các tư tưởng sai lầm, tạo nghiệp nhiều làm phước ít. Thế thì, thời khắc này sẽ gặp phải một loạt những cú sốc ở cấp độ khủng khiếp. Những cú sốc đó là gì ? Chúng ta hãy lật lại một số bản án để cùng phân tích rõ:
- NHỮNG GIÁ TRỊ CẢ ĐỜI NGƯỜI VẪN THEO ĐUỔI, PHÚT CHỐC SỤP ĐỔ
Có một câu truyện ngụ ngôn như thế này :
“Một nhà buôn đem hàng đi đến một vùng xa xôi để bán. Ông thuê một căn nhà trọ để ở trong khoảng một tháng, tiện cho việc bán hàng. Ông có một thói quen kỳ lạ: thay vì quét dọn, lau chùi phòng trọ ở mức vừa phải, sạch sẽ là ở được rồi. Ông ta lại quá sức chăm bẵm cái phòng trọ, nào sơn lại tường, nào lát lại nền, nào thay khung cửa kính, thay rèm cửa, sắm sửa nội thất… trang hoàng cho cái phòng trọ thật đẹp, thật hoành tráng.
Rốt cục, thời gian, công sức, tâm huyết để dành cho việc buôn bán chả được bao nhiêu, hàng hóa ế ẩm, để lâu lại bị hư hỏng. Tiền kiếm được lại đổ cả vào cho việc trang hoàng phòng trọ quá tốn kém, mệt mỏi. Hết tháng ông ta rời đi trong tình trạng lỗ vốn nặng nề. Ông phải trở về quê nhà, trước khi lên đường, ông nhìn lại căn phòng trọ mà ông đã đầu tư bao nhiêu thứ, thật đáng tiếc, không có gì ông có thể mang theo được.”
Bạn đọc câu truyện ngụ ngôn này, hẳn bạn sẽ nghĩ rằng đó là một gã ngốc chỉ có trong truyện, chứ ngoài đời ai lại điên rồ đến mức đó. Ấy nhưng trên đời lại có đông, rất đông người đang phạm phải một sai lầm tương tự.
Như ngay đầu sách đã đề cập, đại đa số nhân loại sống để theo đuổi những giá trị như tiền tài, sự nghiệp, danh vọng, chức quyền, sắc dục, gia đình, vợ chồng con cái… Họ cho rằng những thứ đó là quan trọng nhất, nên đem bao nhiêu năm tháng, bao nhiêu tâm huyết cuộc đời đổ vào đó, có người thất bại, cũng có người thành công, gây dựng được những thành tựu.
Nhưng rồi sao ?
Khi giã từ dương thế, bước đến điện Diêm Vương để chuyển sang một kiếp sống khác, mọi tài sản, chức quyền, hư danh bỗng chốc vô giá trị, toàn bộ phải vứt lại kiếp trước. Mọi mối quan hệ người thân, vợ chồng con cái, kẻ lạ, kẻ thù tôn ti trên dưới đảo lộn tùng phèo.
Và thế là những phép tính tưởng chừng khôn ngoan của con người hóa ra chỉ là thiển cận.
Ta thấy những viên quan to, quan nhỏ như họ Dư ở án đầu, họ Tần ở án thứ 2, họ Triệu án thứ 3, họ Thư án thứ 6. Khi còn sống chức quyền trong tay thì uy phong hét ra lửa, cao cao tại thượng.
Gã họ Dư làm qua nhiều chức quan lớn ở triều đình, quen được cung kính, gã tưởng đâu mấy cái chức quan ấy đi đến đâu cũng được người ta kính trọng cả. Nên mới cả gan nói với Diêm Vương: ” Tôi đã làm quan lớn, xin Vương gia châm chế cho tôi chút thể diện.”
Nhưng gã đã nhầm, một khi đã chết, quan lại, vương tướng hay vua chúa gì thì cũng đều như dân thường. Đối mặt với Diêm Vương, quyền chức lớn cỡ nào mà tạo nghiệp, tham nhũng, hại nước hại dân thì cũng chỉ là hạng tội đồ hèn mọn. Diêm Vương quát hắn: “Dương gian trọng người chức lớn, tại Âm phủ trọng đức, chứ mấy cái chức tước quèn có đáng gì. Kẻ đức hạnh lớn, dầu ăn mày Trẫm cũng kính nể. Nay ngươi còn ỷ thế làm quan mà cự với Trẫm sao ?”
Phải đến lúc này những tên tham quan như hắn mới nhận ra phước đức mới là hành trang duy nhất có thể mang theo qua thế giới bên kia, xong cũng muộn rồi. Từng tên quỳ mọp run rẩy mà nghe tuyên đọc bản án rồi lần lượt đầu thai vào cõi Địa ngục.
Lúc vơ vét cho đầy túi tham ở dương gian, đúng là sung sướng đấy. Nhưng được bao lâu? Chỉ là vài chục năm, thậm chí chỉ là vài năm ngắn ngủi. Ấy nhưng khi vào chịu cực hình của địa ngục, sẽ là hàng ngàn năm, thậm chí là hàng triệu năm và hơn thế nữa. Cái giá quá đắt.
Ở dương thế, cố gắng phấn đấu để được quyền cao chức trọng, uy phong bề thế, nở mày nở mặt với đời, đúng là một phép tính khôn ngoan. Vì thế bao nhiêu kẻ đầu óc khôn khéo đã chọn con đường này mà theo đuổi, nhưng mà mấy ai hiểu rằng quyền chức cũng chính là trách nhiệm nặng nề với dân với nước. Đó vốn là vị trí mà xã hội đặt ra, dành cho những người có đức có tài đứng ra để quản lý, ra quyết sách lo cho xã hội yên ổn, phát triển, chứ đâu phải chỗ để hưởng thụ vui thú ?
Ngồi ghế cao mà không giữ gìn liêm khiết, không dốc sức cống hiến, làm tròn trọng trách thì ghế càng cao, càng dễ tạo nghiệp chướng nặng nề, nguy hiểm càng khủng khiếp.
Biết bao nhiêu kẻ háo danh tham quyền đã rơi vào vòng xoáy này, tài đức kém cỏi nhưng thủ đoạn lại có thừa. Tưởng rằng cứ chiếm được quyền chức trong tay thì sung sướng sẽ là bất tận, miễn là trốn tránh được pháp luật nhân gian.
Chứ đâu biết luật thế gian không xử thì vẫn luôn có luật Nhân quả xử. Nhìn lại thì hóa ra bao nhiêu nỗ lực phấn đấu, giành giật cả đời, chỉ là để mua tấm vé vào địa ngục. Đến lúc đó thì còn nở mày nở mặt với ai, còn cao cao tại thượng với ai ?
]
Rồi ta thấy được kết cục của những kẻ tôn thờ tiền tài, cả đời chỉ biết vơ vào chất cho đầy kho tiền, khư khư ôm giữ như gã họ Khương án thứ 11, gã “giàu còn hơn cả cái châu ấy cộng lại”. Mà tiền nhiều để làm gì ? Hắn nói: “Tôi bấy lâu chắt chiu từng đồng quyết để lâu dài. Cực chẳng đã mới bỏ vài đồng ra mua củi, hoặc mua rau cũng đã tiếc lắm”
Thật tội nghiệp, kiếp người ngắn ngủi làm gì có cái gì mà “để lâu dài được” ?
Sổ sinh tử ghi chép rằng: có năm trong xứ chết đói vì mất mùa, họ Khương chẳng bố thí cho nhà nghèo một nắm lúa gạo. Khi ấy quan phủ, quan huyện cho mời hắn, bảo bố thí cho dân đói, hắn lo hối lộ để khỏi phải bố thí. Đến nỗi bà con hoạn nạn chết đói, hắn cũng không ngó tới!
Rồi thì sao ?
Đến khi chết – điều chắc chắn sẽ xảy ra, một xu cũng không đem theo được, tất cả vàng bạc nhà cửa cũng tiêu tan sạch sẽ bởi tay oan gia trái chủ đã đầu thai làm con cái, phá cho không còn chút gì. Chết rồi nhìn lại, có muốn bố thí cũng không còn cơ hội, phải đầu thai làm ngạ quỷ đói khổ lâu dài, kiếp sau nữa làm ăn mày khốn cùng.
Thử hỏi tài sản lúc trước gã ôm khư khư đó thì có ích gì cho gã đây ? Giá như gã chỉ cần đem một phần mười, thậm chí một phần trăm… số tài sản đó mà đi làm phước, giúp đời cứu người, mọi chuyện đã không đến nông nỗi.
]
Cuộc sống mưu sinh cơm áo gạo tiền luôn đẩy con người ta đứng giữa ngã ba, hoặc chọn lợi ích cho bản thân, hoặc chọn làm theo lương tâm, giữ gìn chữ Đức. Được bên này thì mất bên kia, khó khi nào mà toàn vẹn cả hai cả.
Ấy nhưng lương tâm, đạo đức luôn là một giá trị mơ hồ, không thiết thực. Đúng là xã hội luôn cố gắng ca ngợi đức hạnh, nhưng thực tế luôn rất ít người thực sự trau dồi, gìn giữ chữ đức trong tâm, vì điều đó rất khó khăn, lại chẳng mang về giá trị hữu hình rõ ràng nào. Trong ngắn hạn, người theo đuổi đức hạnh thường chịu nhiều thiệt thòi, thua thiệt, tốn công, tốn sức, tốn tiền, thậm chí còn bị cho là dở hơi, ngốc ngếch vì dám đi ngược lại quan niệm của đám đông quen bon chen.
Chính vì thế nên ta thấy ở ngành nghề nào, vai trò nào trong xã hội, đa số con người thường đặt lợi ích bản thân lên trên hết, sẵn sàng trà đạp lên các giá trị đạo đức.
Vậy nên chữ “nghề” với chữ “nghiệp” hay đi cùng nhau, như ba gã họ Châu, họ Thẩm, họ Dương hành nghề đồ tể ở án 26, như họ Uông án thứ 15 hành nghề đánh cá, như họ Trần án thứ 16 theo nghề cờ bạc bịp. Cả một đời vì đồng tiền mà gây ra bao nghiệp chướng. Kết cục, kẻ thì vào địa ngục, kẻ thì làm trâu 72 kiếp, kẻ thì làm chó 187 kiếp, kẻ nhẹ nhất thì qua kiếp sau cũng bị xử chém. Đúng là vì cuộc mưu sinh thúc ép người ta phải làm, nhưng đâu có nghĩa trên đời chỉ có những nghề đó ? Có đáng hay không ?
Và rồi ngay ở những nghề vốn là tốt đẹp, chỉ cần người ta làm đúng lương tâm nghề nghiệp, làm tròn trách nhiệm công việc của mình, thế là vừa có thu nhập, vừa tăng thêm phước báo. Ấy thế mà đa số con người ta vẫn bán rẻ lương tâm để đổi lấy lợi ích, tiền tài.
Ta thấy thợ bạc thì làm bạc giả ở án thứ 4, lính hầu ở phủ thì thao túng nha môn trục lợi ở án thứ 7, thư sinh hành nghề viết đơn mướn thì gian xảo, đổi trắng thay đen, bẻ cong công lý ở án thứ 8. Thầy thuốc thì không có tay nghề cũng dám ra bốc thuốc lung tung miễn bản thân kiếm được tiền, còn ai sống chết thây kệ, khiến nhiều người bỏ mạng ở án thứ 12.
Rồi tá điền thì gian manh, bày trò hại chủ đất ở án thứ 14. Các nhà sư thì được người đời cúng dường mà không lo tu hành, phá giới, gian dâm, ăn thịt uống rượu ở án thứ 22. Cử nhân thì ra vào nha môn đút lót quan lại, đưa mối kiện tụng, vơ vét cho đầy túi tham ở án thứ 24. Các nho sĩ thì rong chơi lười nhác, dạy học cầm chừng lấy tiền, lại còn dạy dỗ lung tung, trái ngược với đạo lý .v.v… ở án 28.
Qua đó ta hiểu được rằng, ngay cả với những thứ vốn tốt đẹp, xong rơi vào tay những kẻ ích kỷ, tài hèn đức mọn, chỉ biết lợi mình mà xem thường đạo đức, thì những thứ tốt đẹp cũng biến chất thành những thứ tồi tệ, nguy hại cho xã hội, trở thành nguồn cơn của nghiệp chướng, mở cửa cho những kẻ tha hóa từng bước tiến vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
]
Và rồi đạo đức cũng không chỉ bị trà đạp ở trong lĩnh vực nghề nghiệp, mà ở mọi lĩnh vực khác như ứng xử trong gia đình, trong các mối quan hệ với cộng đồng, lối xóm, cũng đều như vậy. Đạo đức và bản năng xấu sẵn có trong con người luôn đối nghịch nhau, đấu tranh giành giật với nhau để chiếm quyền ra quyết định. Đáng tiếc là đa số mọi người sẽ để bản năng xấu chiến thắng.
Vì thế nên ta thấy chỉ trong mấy chục án xử mà đã điểm danh đủ loại tội lỗi, dù chẳng ai khuyến khích cả nhưng nó vẫn cứ diễn ra. Nào là kẻ làm con thì lười biếng như gã họ Trần ở án thứ 10, để cha mẹ phải đói khổ. Rồi bất hiếu, hỗn hào như gã họ Uông án thứ 15, họ Dư án thứ 31, họ Hàng án thứ 25. Nào là kẻ làm cha mẹ thì tàn nhẫn, đang tâm giết con như Thành Sửu Nương án thứ 20 và họ Từ án thứ 33. Nào là nàng dâu ngỗ nghịch cha mẹ chồng như Tiền Mẫu Nương án thứ 18.
Rồi nào thì mẹ kế hành hạ, ngược đãi con chồng như Tào Thị án thứ 21. Nào là vợ không giữ tròn bổn phận, ngoại tình lang chạ như Châu Tú Nương án thứ 20, Phan Thị án thứ 35. Nào là chủ ức hiếp, giết hại người hầu như Châu Tú Nương án thứ 19, Trình Thị án thứ 30. Rồi đến dạng miệng lưỡi thị phi, ngồi lê đôi mách, đặt chuyện vu oan khắp làng trên xóm dưới như Cát Thị án thứ 34.
Ta cần hiểu rằng ở đây chỉ là một trong 9 buổi xét xử hàng tháng, tại một địa phương Kinh Châu (tương đương với một tỉnh ở Việt Nam hiện nay) mà thôi, sẽ còn rất nhiều hạng người khác với những thể loại tội lỗi khác chưa được nhắc đến ở đây, thế mà đã dày đặc tội trạng như vậy rồi.
Trong số 60 tội hồn bị xét xử, ta đếm được có 26 kẻ vào địa ngục, 3 kẻ đọa làm ngạ quỷ đói khổ, có 19 kẻ đọa làm súc sinh từ vài kiếp đến hàng trăm kiếp, một số kẻ tội nhẹ, hoặc có tạo phước gì đó bù đắp, thì cũng đầu thai làm người, xong cũng toàn là đui, què, cùi lở, tàn tật… hay làm ăn mày, gái điếm, bị chết thảm.
Chỉ một buổi xét xử mà nghiệp chướng, khổ đau đã nhiều như thế, thử hình dung còn biết bao nhiêu buổi xét xử khác ở những nơi khác nữa, con số sẽ nhân lên biết bao nhiêu lần ?
Chính vì lẽ đó, số lượng chúng sinh trong địa ngục cực kỳ đông đảo, số lượng ngạ quỷ nhiều không đếm xuể, và số lượng súc sinh cũng không ai thống kê nổi. Dân số loài người hiện nay là 8 tỉ người, nghe có vẻ nhiều đấy, xong so sánh với số lượng chúng sinh trong các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì chỉ như nắm cát trong bàn tay mà so với cát trong sa mạc. Đã vậy, trên bình diện chung của nhân loại, những người nghèo khổ, tàn tật, tệ nạn, chết thảm… luôn luôn chiếm một tỉ lệ áp đảo.
Chung quy cũng là vì nhận thức của đa số người đời bị lệch lạc, không biết trên đời thứ gì thực sự quan trọng, chiều theo dục vọng, bản năng tham – sân – si của mình, việc đáng làm thì không làm, những điều vô bổ, nguy hại thì lại nhiệt tình dốc sức. Giống như nhà buôn dại dột trong câu truyện ngụ ngôn tôi đã kể, bỏ bê việc buôn bán làm ăn mà đi chăm chút, trang hoàng cho cái phòng trọ. Thật đáng thương cho không biết bao kiếp người lầm lạc.
Đứng trên góc độ tâm lý, xu hướng chung của con người là bỏ khó tìm dễ, chạy theo những lợi ích dễ thấy trước mắt và bỏ qua những giá trị lâu dài. Mà dĩ nhiên, lựa chọn sống theo lương tâm mách bảo, đứng về phía đạo đức luôn khó khăn hơn nhiều so với chọn theo quyền quý, danh lợi phù hoa. Lối sống này có thể đẹp đấy, nhưng không thấy được lợi ích rõ ràng, thiết thực trong ngắn hạn, thế nên xu hướng chung là con người sẽ phớt lờ, bỏ qua nó.
Tin vui cho chúng ta là dù ít, nhưng trên đời vẫn luôn có những người chiến thắng được những dục vọng ích kỷ trong tâm để chọn sống theo Đạo lý, giữ gìn đức hạnh. Đó là 3 vị Liễu Thị, Dương Thăng, Trương Quan Diện được nhắc tới ngay từ đầu (và không thể không kể đến Lâm Tự Kỳ, được Diêm Vương báo trước sau này sẽ sinh thiên), với những nhân cách sáng ngời, đem đến cho đời những nghĩa cử cao đẹp, những việc làm ý nghĩa, dù khi còn sống họ cũng chẳng có công danh hiển hách hay cao sang phú quý gì, nhưng trút bỏ xác thân giả tạm này, họ liền được sinh lên thiên giới, hưởng lạc thú tiên cảnh lâu dài hàng trăm năm, ngàn năm.
Kế đến là những người thiện ác đan xen, công tội đều có, nhưng nghiêng về bên thiện nhiều hơn, như tên trộm mà biết khuyên người tu ở án thứ 9, người lính tha mạng, trả tự do cho hai người phụ nữ ở án thứ 17. Hoặc hạng người trước tạo tội lỗi, sau biết ăn năn sám hối, tạo nhiều phước lành để bù đắp như người lái đò ở án thứ 23. Trong cuộc chiến giữa thiện và bất thiện ở trong tâm, bọn họ đều đã rất vất vả để nghe theo lời mách bảo của lương tâm, cuối cùng đứng về phía cái thiện, và ta thấy họ cũng nhận được những phần thưởng xứng đáng trong kiếp sau.
Còn bạn, đứng trước những ngã ba, bạn đã – đang – và sẽ chọn lựa như thế nào ?
- DỰA DẪM THẦN THÁNH HÒNG TRỐN TRÁNH LUẬT NHÂN QUẢ
Trên đời vốn luôn có nhiều tôn giáo, nhiều tín ngưỡng thờ thần linh, các hoạt động tâm linh luôn rất sôi động bất kể đông tây kim cổ. Chắc tôi không cần giới thiệu nhiều vì hẳn bạn đã từng nhiều lần nhìn thấy những dòng tín đồ đông đảo tụ tập khắp các ngôi đền, nhà thờ, chùa chiền, thánh địa khắp thế giới, bất kể là thời xưa khoa học chưa phát triển, hay là thời nay khi khoa học đã lên ngôi.
Xong, bạn cần phải hiểu một điều rằng: đó không phải vì có nhiều người khát khao tìm cầu chân lý, thành tâm học Đạo, những người như thế luôn hiếm hoi. Mà chủ yếu là vì nhu cầu được “Bề trên” che chở, phù hộ để tai qua nạn khỏi, ban phước phát lộc để toại nguyện các mong cầu là chủ yếu.
Nhìn bên ngoài có vẻ các tín đồ đều giống nhau, đều thành khẩn, đều cung kính cả. Xong bản chất bên trong tâm thì khác nhau rất xa.
- Người tìm đến những đấng thiêng liêng, trí tuệ để cầu Đạo, là họ mong muốn tìm ra một con đường, một giáo lý cao thượng để họ sống theo, từng bước chỉnh sửa bản thân để đạt đến những tầng cao mới. Khi đó, họ xem những đấng thiêng liêng là THẦY của họ, và chú trọng đến giáo lý dạy như thế nào.
- Còn những người tìm đến những đấng thiêng liêng, quyền năng để cầu xin một sự che chở, phù hộ cho bản thân có được những thứ mình muốn như quyền, uy, danh, lợi, tình, tiền… bảo vệ bản thân và gia đình khỏi những nguy hiểm, khổ nạn. Khi đó, họ xem những đấng thiêng liêng là bùa hộ mệnh của họ, và chú trọng đến các sự linh ứng, màu nhiệm như thế nào.
Với động cơ như thế, họ cho dù có được nghe về các giáo lý phải sống như thế này, phải làm như thế kia, thì họ cũng chẳng quan tâm, chẳng nhớ, chẳng làm theo. Lập luận của họ rất giản đơn, “Tôi cúng lễ lên các Ngài, tôi thờ phụng các Ngài, các Ngài phải phù hộ độ trì cho tôi, không thì tôi bỏ đi chỗ khác”.
Một cuộc giao dịch một chiều với đấng thiêng liêng mà tự con người đặt ra, chứ chẳng hề có đấng thiêng liêng nào hiện ra ký kết vào giao dịch này cả. Thật nực cười, nhưng đời vẫn luôn nhiều kẻ tin vào việc vô lý như thế.
Và rồi sau đó thực tế diễn ra như thế nào ?
Bất kể thần thánh linh thiêng như thế nào, có lòng từ bi muốn cứu giúp con người như thế nào, thì cũng đều phải tuân theo quy luật vận hành của vũ trụ. Quyền năng các Ngài có được cũng đều là do thuận theo luật Nhân quả, tạo phước tích đức rất nhiều kiếp mới có được. Không có lý nào những kẻ muốn sống ngược với đạo lý, đòi hỏi thần thánh phù hộ lại có thể bẻ cong quy luật vũ trụ, sống bất thiện, tạo nghiệp thật nhiều xong được hưởng an lạc, sung sướng cả.
Những kẻ mê tín tội nghiệp, họ không hiểu được rằng:
Luật Nhân Quả mới là quyền lực tối thượng, Thần linh cũng chỉ như công chức thực thi luật Nhân quả. Các bậc Thánh vượt thoát khỏi Tam Giới như Đức Phật, Bồ Tát cũng là dạy con người hiểu rõ luật Nhân quả, chứ đâu vị nào bẻ cong luật Nhân quả được. Thế nên những kẻ u mê xem thường, phớt lờ luật Nhân quả mà tôn sùng các thứ phù phiếm, cầu khẩn thần thánh bảo hộ để mặc sức làm những việc bất thiện, là điều ngu xuẩn phổ biến nhất.
Ngay đến Đức Phật Thích Ca, Ngài là bậc Thánh đã đạt đến Giác Ngộ viên mãn, thoát khỏi luân hồi, bản thể Ngài luôn an trụ trong Niết Bàn thanh tịnh. Nhưng khi Ngài vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng sinh mà ứng thân, hóa thân vào trong luân hồi, thì ứng thân, hóa thân của Đức Phật vẫn phải tuân theo luật Nhân quả, chịu đựng những Nghiệp chướng kiếp xưa Ngài đã tạo, như bị người của các ngoại đạo vu oan, phỉ báng, bị Đề Bà Đạt Đa lăn đá ám hại khiến Ngài bị thương, bị tín đồ thất hứa mà phải ăn lúa cho ngựa. Bà con thân thích trong dòng họ Thích Ca của Ngài kiếp xưa tạo nghiệp sát sinh, thì kiếp nay bị quả báo vua Lưu Ly kéo quân tàn sát gần hết, Đức Phật muốn cản cũng không thể cản được.
Vậy thì lấy đâu ra chuyện Phật – Bồ Tát bảo hộ cho những kẻ coi các Ngài như bùa hộ mệnh, phớt lờ đạo lý Phật dạy mà mặc sức tạo nghiệp, chìm sâu trong tội lỗi lại được bình an, sung sướng chứ?
Vì lẽ đó, ta thấy những kẻ như gã tham quan họ Dư ở án thứ nhất, hắn thờ Chuẩn Đề Bồ Tát, gã họ Triệu án thứ 3 thì thờ Tam Quan ( Thiên Quan, Địa Quan, Thủy Quan). Còn gã họ Tôn án thứ 7 thờ Phật A Di Đà, có niệm Phật và còn dát vàng tượng Phật. Ấy nhưng cả 3 đều thẳng tay tạo ác nghiệp, nào vơ vét tham nhũng, nào bức hại dân lành, một chút ăn năn sám hối cũng không có, lại mong Phật – Bồ Tát – thần linh che chở cho chúng. Thờ thần thánh như thế khác nào coi các Ngài như tấm lá chắn, thành kính ở đâu?
Chết rồi gặp Diêm Vương đối chất, cả bọn bị Diêm Vương dội cho một gáo nước lạnh. Diêm Vương phán: “…Nếu làm ác, sao không biết ăn năn chừa lỗi, làm phước niệm Phật, thì ta tha tội. Có đâu mượn tiếng cúng chùa niệm Phật, mà làm ác thẳng tay? Phật A Di Đà không lẽ giúp sức cho người làm ác sao ? Ví dụ như kẻ vì tửu sắc mà sinh bệnh, uống thuốc để chữa. Nếu kiêng tửu sắc, thì uống thuốc mới khỏi. Còn nếu vẫn mê say tửu sắc như xưa, thuốc nào mà trị cho nổi?”
Đến lúc này mới hiểu ra, thì đã quá muộn. Cả 3 đều lĩnh án đầu thai vào địa ngục, chịu cực hình không biết đến đời kiếp nào mới hết.
Qua đó ta hiểu rằng, chỉ có hạng người xem những đấng thiêng liêng là THẦY của họ, chú trọng học hỏi, nghiền ngẫm giáo lý dạy như thế nào mà dốc lòng thực hành theo mới là những người nhận về những hồng ân, được tận hưởng những phúc lành vi diệu mà đấng thiêng liêng ban tặng.
Bạn có nằm trong số những người đó không ?
- NHỮNG NỖI SỢ
Cuộc sống tạo ra cho con người ta rất nhiều nỗi sợ. Tuy nhiên không phải nỗi sợ nào cũng đáng để sợ. Mặt khác, có những điều nghiêm trọng đáng phải sợ, thì lại chẳng mấy ai quan tâm.
Sợ những lời đánh giá, bình phẩm của đám đông
Con người chúng ta là một loài sống theo cộng đồng, bởi vậy, sức ảnh hưởng từ cộng đồng luôn có một độ nặng đáng kể. Đôi khi những phán xét của cộng đồng là đúng, xong cũng nhiều khi, nó sai lầm. Bất kể là đúng hay sai, nhưng có một thực tế là: những lời đánh giá, bình phẩm đến từ đám đông những người sống xung quanh như họ hàng, bạn bè, làng xóm, đồng nghiệp, cộng đồng … quả là khiến cho mỗi người phải e sợ. Nó tạo ra một sức ép, buộc người ta phải hành xử để chiều lòng định kiến của đám đông.
Ví dụ như sợ không bằng bạn bằng bè, nên một số người cố mua sắm, trưng diện, tiêu xài dù chính mình không thích. Sợ không theo phong tục nơi mình sống thì hàng xóm, làng xã người ta nói này nói kia, sống khác với xung quanh người ta cho là “Kỳ cục!” nên nhiều người cứ phải làm đủ những lễ nghi, tập tục dù mình chẳng đồng tình. Kiểu như ở Việt Nam, cứ giao thừa là phải giết gà cúng, mấy ngày tết đều phải hì hục, liên tiếp nấu “mâm cao cỗ đầy” cúng ông bà dù người trong nhà không ăn nổi, rồi ngày vía Thần Tài là phải mua vàng, cúng cá lóc, heo quay…
Rồi người ta sợ không đua với đời thì bị tụt hậu, bàn dân thiên hạ người ta xem thường, nên bao người cứ phải a dua chạy theo những trào lưu không ngừng phát sinh .v.v… Điều đó lí giải cho nhiều trường hợp, người ta không phải tự mình muốn làm, mà là để chiều lòng đám đông mà hành xử sai lầm, tạo ra nghiệp chướng.
Nhưng liệu trên đời có mấy ai đủ tỉnh táo và trí tuệ để hỏi lại rằng:
“Vì việc này, một lúc nào đó mình qua bên kia thế giới rồi, Phán Quan giở sổ đọc công tội, Diêm Vương đập bàn phán quyết và có thể sẽ mở ra một kiếp mới khủng khiếp trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Lúc đó liệu đám đông mà mình cố chiều lòng kia sẽ đến cứu mình chăng ?”
Không đâu, khi đó cùng lắm họ chỉ đến thắp nén nhang, chúc mồ yên mả đẹp thôi, chứ ai biết gì đâu mà cứu. Chính họ cũng còn đang ngụp lặn, loay hoay trong đống nghiệp chướng của họ không biết đường nào thoát ra nữa là lo cho mình. Thậm chí đám tang mình nhiều người sẽ còn chẳng có mặt, họ không biết, họ bận, hoặc họ không quan tâm đến “một ai đó” đã không còn trên cõi đời. Vậy tại sao cứ phải cố chiều theo định kiến của đám đông kia, để rồi có hậu quả gì mình lĩnh đủ?
Có thể vì nhiều người không biết nên họ rơi vào sai lầm này. Nhưng nay thì bạn đã biết rồi. Trước khi quyết định làm hay không làm điều gì đó, hãy tỉnh táo và suy xét lại. Đánh giá của đám đông, với bản án của Diêm Vương, thực sự cái nào đáng sợ hơn với chính mình?
Người ta sợ bị lộ “bí mật”.
Khi ai đó tạo ra tội lỗi, thường họ sẽ bị mọi người lên án, bị pháp luật trừng trị. Tuy nhiên, vì con người không thể đọc được ý nghĩ trong đầu nhau, nên chỉ cần tìm cách nói dối, giấu kín thì tội lỗi sẽ được ém nhẹm. Thế nên đại đa số con người ta thường tạo một vỏ bọc hào nhoáng bên ngoài để che đậy những phần xấu xí bí mật bên trong. Như thế, một nỗi sợ mới được hình thành: sợ lộ bí mật.
Như những tội phạm, vì sợ lộ, chúng thường lén lút phạm tội trong bóng tối tránh để phát hiện. Những kẻ giết người thường sẽ tìm cách phi tang, giấu xác, thậm chí sẵn sàng giết thêm người để bịt đầu mối… Trong xã hội loài người, những trò giả dối này có vẻ có tác dụng ở mức độ nào đó, khiến cho nhiều người cảm thấy yên tâm để thực hiện những hành vi xấu, miễn là không để bị phát hiện, sẽ không có trừng phạt nào cả.
Để rồi đến ngày đối diện với Diêm Vương, họ sẽ ngỡ ngàng nhận ra rằng: chẳng có một cái gì gọi là bí mật cả, từ việc làm, lời nói, đến tận cả ý nghĩ thầm kín trong tâm. Trong vô hình mắt người không thấy, luật Nhân quả vẫn lặng lẽ theo dõi ghi nhận nhất cử nhất động của từng người, từng chúng sinh một như một camera giám sát 24/24 siêu đẳng không bao giờ hỏng. Rồi đến tầng tầng lớp lớp các thần linh cũng theo dõi, ghi chép đầy đủ mọi sự việc, hành động của con người. Vậy nên trong dân gian lưu truyền một câu rằng: “Người đang làm, trời đang nhìn”
Trước điện Diêm La, mọi tội lỗi giấu kín bao năm sẽ bị phanh phui, vì sổ sinh tử trên tay Phán Quan ghi chép không sót gì cả. Mọi lời chối cãi, bao biện sẽ bị bẻ gẫy, vì Diêm Vương có thần nhãn nhìn thấu tận tâm can từng người. Giống như một tên Nho sinh họ Ngu ở huyện Tương Dương ở án thứ 28, hắn kể công với Diêm Vương:
– Tôi có công dạy học trò, cũng hữu ích cho đời.
Lập tức, cái mặt nạ của hắn bị Diêm Vương xé vụn: ” Ngươi có quả thiệt như đức thánh Mạnh Tử, lấy hiếu- lễ- trung- tín mà dạy học trò sao ? Chẳng qua là dạy cầm chừng, chiếu lệ mà hại đệ tử, cả ngày lo ăn thịt, rượu chè cho say sưa, không công mà hưởng lộc, tội lỗi chẳng ít, còn kể công sao ?”
Hay như gã cờ bạc bịp họ Trần ở án thứ 16, khi Phán Quan đọc án xong, hắn cố bào chữa rằng: “Tôi tối dạ đi học không được, tập tành bài bạc kiếm tiền dễ hơn. Lỡ vào nghề đó, sinh gian sinh lận. Song ăn thì lấy, thua thì trả, hai bên tình nguyện như nhau. Chứ tôi không giật của người ta, xin Vương gia dung thứ.”
Hắn cố ý nói đến cái “tự nguyện” của các nạn nhân để hòng giảm án, nhưng hắn gạt được người thường chứ gạt thần linh thế nào được. Lập tức Diêm Vương vạch trần hắn:
“Ai dại gì tình nguyện đem của mà cho ngươi, là tại ngươi lập mưu mà gài bẫy, bên ngoài nói lời ngon ngọt, làm như tình nghĩa ruột rà, nào là đãi ăn, nào là phục rượu, nào là đem nữ sắc mà quyến rũ cho mê say. Ấy là trăm mưu ngàn kế mà gạt người, độc ác dường ấy mà dung tha sao cho được ?”
Rồi đến án thứ 22 của các nhà sư, khi được Diêm Vương gặng hỏi, họ vẫn cứ khăng khăng rằng mình trong sạch: “Xin vương gia từ bi thẩm xét, thiệt chúng tôi chán ngán việc đời, nên xuất gia quy Phật mà cầu siêu độ linh hồn, chứ không có ý chi khác.”
Đối với những ai cố cãi cho bằng được, không chịu phục, Âm phủ đã có biện pháp. Đó là cho lên Nghiệp Kính Đài – một bảo vật có chức năng như một màn hình tivi, có thể tua nhanh, chiếu lại toàn bộ hình ảnh, âm thanh, các sự kiện lớn nhỏ trong đời của mỗi người.
Và thế là bao nhiêu việc gian dâm, phá giới, uống rượu, ăn thịt… của một số nhà sư hiện lên rõ mồn một. Còn ai trong sạch, cả đời giữ giới, công quả xây chùa, giữ Đạo cũng được làm minh bạch. Kẻ gian, người ngay rõ ràng, người nào đi theo dòng Nhân quả phước nghiệp của người nấy, không còn gì để bàn cãi.
Tóm lại, trong cõi u minh không có gì là bí mật, mọi giấu diếm, dối trá đều bị phanh phui sạch sẽ. Những cái mặt nạ giả tạo mà con người thường đeo để lòe nhau, những vở kịch gian xảo mà con người thường diễn để gạt nhau, chúng không hề giúp tránh thoát khỏi trừng phạt. Thậm chí, chúng còn khiến người ta chìm sâu hơn trong tội lỗi vì cho rằng “dối trá có thể xóa nhòa công lý”, để rồi tạo thói quen mặc sức sống tội lỗi, làm cho Nghiệp chướng ngày càng chồng chất cao thêm, kết cục chính mình lãnh đủ.
Thế nên muốn không bị trừng trị bởi những tội lỗi của mình gây ra, cách duy nhất là đừng làm gì khuất tất cả. Hãy sống thành thực, không phải để ai khác nhìn vào, mà là vì lợi ích sống còn của chính mình.
(Quang Tử)