MUÔN KIẾP NHÂN SINH (bản tóm tắt)

0
2549

(Tĩnh Như, tóm tắt câu chuyện “Muôn kiếp nhân sinh” của tác giả Nguyên Phong)

Phần 1 : Y SĨ THỜI ATLANTIS 

Trước kia, tôi không bao giờ tin vào những chuyện mơ hồ, viển vông, tôi không tin chuyện có nhiều kiếp sống như một số tôn giáo đề xướng. Tôi không tin con người chết đi rồi đầu thai vào một kiếp khác. Tôi là người thực tế, không dễ tin người. Nhưng nay, mọi thứ đã thay đổi. Tôi không thể chối cãi những điều mà từ trước đến nay tôi khăng khăng phủ nhận. Rõ ràng, tôi đã sai. Và tôi biết, ngoài kia có rất nhiều người đã từng giống tôi, nên tôi quyết định chia sẻ lại những trải nghiệm thực tế của mình. Mong rằng bạn có thể thức tỉnh.
Tôi là Thomas, một doanh nhân nổi tiếng và thành công trên thị trường tài chính New York. Những cộng sự, đồng nghiệp và bạn bè của tôi đều là những nhân vật tên tuổi trong xã hội nước Mỹ và thế giới hiện nay. Vì vậy, khi muốn chia sẻ những kiếp sống trong vòng quay luân hồi của mình tới nhiều người, tôi xin phép dùng “Thomas” như một cái tên tạm đặt. Tất cả những con người xuất hiện trong cuộc đời tôi sắp kể ra đây, cũng đều đã được thay tên đổi họ, để tránh sự bàn tán sẽ gây ảnh hưởng tới cuộc sống riêng tư của tôi và nhiều người khác.
Cuộc đời tôi hoàn toàn thay đổi kể từ cuộc gặp gỡ định mệnh với một người đàn ông tên Kris-một người chỉ ăn hoa quả để nuôi sống thân mạng. Lần đó tôi và vợ đang trên đường đến căn nhà nghỉ dưỡng chúng tôi mới mua ở bang Colorado, thì bị lạc đường và hỏng xe giữa đêm ở một nơi vắng vẻ. Ông Kris tình cờ ở gần đó, nên đã cho chúng tôi nghỉ nhờ một đêm tại nhà ông.
Sau một thời gian chuyện trò, thực tình, ông ấy khiến tôi đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Ông là ai? làm nghề gì? đến từ đâu? Tại sao ông ấy lại có trí tuệ vượt xa một người bình thường như vậy? Tôi có cảm giác chúng tôi đã quen biết từ lâu, không phải trong kiếp này, mà từ những kiếp sống xa xôi trở về trước.
Ông Kris gọi đây là nhân duyên tiền kiếp, khiến cho chúng tôi tuy xa lạ, tưởng như vô tình gặp gỡ, nhưng việc gặp mặt này là một định mệnh đã được ấn định từ trước do chính tôi.
Ông ấy xuất hiện, có lẽ chỉ để nhắc tôi nhớ lại những gì cần phải nhớ, nhớ lại quá khứ tiền kiếp của chính mình. Tôi đã nhớ lại được nhiều kiếp sống, bạn cứ thong thả, trải nghiệm cùng tôi.

Tại căn nhà nhỏ của ông Kris, nơi trưng bày nhiều vật dụng rất kì lạ với xã hội ngày nay, nhưng kì lạ thay, chúng đem lại cho tôi một cảm giác rất thân thuộc. Đặc biệt là khi nhìn thấy một cây gậy có chất liệu giống như pha lê, màu bạc, gắn 7 viên đá quý to như ngón tay cái, cảm giác trong tôi rất kì lạ, như thể tôi đã sở hữu nó, đã từng sử dụng nó thành thạo từ trước.
Tôi tò mò chạm tay vào cây gậy màu bạc ấy, bỗng nhiên, tôi cảm nhận được một luồng sức mạnh từ cây gậy truyền vào thân thể khiến cả người nóng ran lên, ngực tôi nghẹn lại, đầu óc quay cuồng.
Tôi muốn buông nó ra, nhưng cứ như có một lực hút vô hình khiến tôi chẳng thể bỏ xuống được. Mọi vật dần trở nên lộn xộn, mơ hồ. Bất thình lình, tôi cảm thấy một sức mạnh dội vào lồng ngực khiến tôi thiếp đi.
Tôi thấy mình đang trong một thể xác khác. Tôi tự nhủ có lẽ mình đang nằm mơ chăng? Tôi dụi mắt, vung mạnh tay để đánh thức mình, nhưng hóa ra tôi chẳng mơ chút nào cả. Tiềm thức của tôi đang hoạt động, tôi đã được trở về tiền kiếp của chính mình tại châu Atlantis, một nền văn minh đã bị hủy diệt, và nhìn mọi thứ như xem một cuốn phim.
Huyền thoại Hy Lạp nói rằng Atlantis hiện hữu vào thời xa xưa, ở giữa Đại Tây Dương, được coi là cái nôi của nền văn minh Ai Cập cũng như Hy Lạp, và rất có ảnh hưởng đến nền văn minh hiện thời. À mà với tôi bây giờ, nó chẳng còn là huyền thoại nữa.
Nền văn minh ấy đã bị xóa sổ hoàn toàn chỉ sau một trận đại hồng thủy, cuốn trôi và nhấn chìm tất cả châu lục, khiến châu Atlantis biến mất như thể chưa từng có trên Trái Đất này, chẳng để lại một dấu vết gì cho đến ngày nay. Nhưng thực tế thì, tôi ngay lúc này, đang được trở về chính kiếp sống trước của mình tại một lục địa lớn, với nhiều hòn đảo vây quanh. Nơi huyền thoại giới khoa học vẫn gọi là ATLANTIS.
Khi được quay trở lại, tôi đã để yên cho tiềm thức của mình hoạt động, không còn cố vùng vẫy nữa. Bỗng nhiên tôi biết rất rõ mọi chuyện của nền văn minh ấy. Tôi biết người Atlantis rất thông minh, họ có một nền khoa học kĩ thuật đã tiến rất xa và khác hẳn so với chúng ta ngày nay.
Bởi người Atlantis đã phát triển một thứ kiến thức đặc biệt, giúp họ sử dụng được những năng lực tiềm tàng của thiên nhiên và áp dụng vào trong việc chế tạo ra những công cụ tối tân vô cùng.
Những hình ảnh lịch sử của Atlantis cứ dần dần hiện ra trong tâm trí tôi. Nền văn minh này có thể sử dụng ánh sáng mặt trời cùng sự rung động của các loại kim thạch để thay đổi nguyên tử vật chất.
Họ có thể làm mất trọng lượng của một vật thể để xây dựng nên những công trình kiến trúc khổng lồ, kiên cố, mà không cần sử dụng đến những máy móc hiện đại như ngày nay, như những kim tự tháp khổng lồ, những ngôi nhà san sát, đường sá rộng rãi, và những cây cầu đá vĩ đại nối liền các hòn đảo với nhau. Họ có thể thay đổi nguyên tử trong cơ thể con người để phục vụ cho việc chữa bệnh bằng những cây gậy gắn đá quý.
Những điều này hẳn rất khó tin. Bản thân tôi cũng vậy, nếu không phải trực tiếp bản thân được nhớ lại tiền kiếp. Chắc chắn tôi cũng chẳng thể nào tin nổi. Nhưng với tôi giờ đây, rõ ràng nó là sự thật sờ sờ trước mắt.
Văn minh Atlantis đã kéo dài hàng ngàn năm với rất nhiều triều đại vua chúa. Khoa học kỹ thuật phát triển vượt bậc là thế. Ngược lại, đạo đức của người dân Atlantis lại vô cùng suy đồi.
Người ở giai cấp trên tàn bạo, dã man, thẳng tay bóc lột, đàn áp tầng lớp dưới không một chút ghê tay. Họ vô cùng ích kỉ, tham lam và hung bạo, “mạnh được, yếu thua”, không có gì gọi là tình nghĩa.
Thậm chí họ còn chưa bao giờ được biết tới, nghe tới định nghĩa thế nào gọi là “tình yêu thương”. Họ sống theo bản năng, không hề có hệ thống luật pháp như chúng ta ngày nay. Họ tham ái dục, không hề kiểm soát được dục tính.
Những cảnh tượng giao hợp nam nữ thật không khác loài vật hiện nay là bao, nó diễn ra khắp nơi, không phân biệt đối tượng, không dựa trên tình cảm, mà chỉ là sự chiếm đoạt theo bản năng và sức mạnh.
Sự phát triển về vật chất và khoa học kĩ thuật thường lại đi ngược chiều với sự phát triển về tâm linh, đạo đức, như một quy luật vẫn tồn tại cho đến nay.
Khi con người ta được hưởng thụ quá nhiều về mặt vật chất, thì sự tham đắm dục lạc được dịp nổi lên, trong khi họ lại không biết vun bồi trí tuệ, đạo đức, nội tâm bên trong. Từ đó tham- sân- si có cơ hội trỗi dậy mạnh mẽ, họ sẽ sinh ra đủ thứ tật xấu, gây tạo bao ác nghiệp.
Dựa trên sự rung động của kim thạch và âm thanh, người Atlantis có thể phân tách ánh sáng mặt trời thành năng lượng để phục vụ cho cuộc sống và chế tạo ra các loại vũ khí giết người cực kì lợi hại.
Họ có thể thay thế bộ óc con người bằng những dụng cụ gắn vào não, khiến những người này trở nên khờ dại, không còn biết gì, và chịu sự chi phối của người khác.
Qua kĩ thuật thay đổi nguyên tử, người Atlantis có thể thay đổi các cơ quan đã bị suy yếu, tổn thương trong cơ thể người để chữa khỏi bệnh. Nhưng phương pháp này cũng có thể biến đổi con người thành một sinh vật khác khi ghép các cơ quan nội tạng của động vật vào cơ thể họ, và tạo ra một loại sinh vật mới “nửa người, nửa thú”, một sinh vật giống người, với khả năng đặc biệt để sử dụng vào những mục đích mà con người ngày nay không thể tưởng tượng được.
Một số người, phần lớn thuộc đẳng cấp thấp , hay tù binh chiến tranh thường được đưa vào phòng thí nghiệm để tác hợp với nguyên tử của các loài thú có sức mạnh như trâu, bò, voi, ngựa, lạc đà, biến thành một dạng nửa người, nửa thú.
Rồi họ được giao phó những công việc nặng nhọc, như xây dựng, chuyên chở. Đó là một lực lượng lao động không còn biết suy nghĩ mà chỉ tuân theo mệnh lệnh như một cái máy.
Những sinh vật người được tác hợp với nguyên tử của những loài vật hung dữ (như sư tử, cọp, beo, chó sói) thì được giao phó nhiệm vụ kiểm soát những người ở đẳng cấp thấp, hay những người đã bị biến đổi thành nửa người nửa thú để phục vụ cho tầng lớp cao hơn.
Đó là những binh lính cực kì hung dữ, sẵn sàng tạo ác trong sự vô cảm hoàn toàn, bất chấp sự đau khổ của các chúng sinh khác.
Tôn giáo lớn nhất thời bấy giờ là một tôn giáo thờ thần Thái Dương, sau này được đem đến truyền bá tại Ai Cập, tàn lụi dần và chỉ còn lại những tàn tích.
Atlantis khi đó gồm có 3 quốc gia, là Poseida, xứ Og, và nhỏ nhất là Arya, đất nước của tôi. Thật khó có thể tưởng tượng được lịch sử Atlantis lại hiện ra rõ rệt trong tiềm thức của tôi như một bức tranh vô cùng sống động và chân thực như vậy.
Tôi khi ấy là con trai một gia đình quyền quý, thuộc đẳng cấp cao nhất trong xã hội. Từ nhỏ tôi đã được dạy cách sử dụng cây gậy ngọc để chữa bệnh, tôi nhanh chóng trở thành một y sĩ tài giỏi trong nước.
Chính vì sinh ra trong gia đình quyền thế, nên tôi sinh tâm kiêu căng và có những tham vọng khác thường. Cũng giống như đa số mọi người, tôi cũng sống rất bản năng, không hề biết kiểm soát nội tâm của mình.
Tại đền thờ Thái Dương, tôi vô tình nhìn thấy đôi chân trần trắng trẻo, gợi cảm của một cô gái xinh đẹp, đang múa hát theo điệu nhạc du dương huyền bí. Cô tên là Kor. Người con gái trong sáng, thanh khiết ấy đã thu hút tôi.
Tôi đột nhiên sinh tâm muốn chiếm đoạt cô ta. Không phải xuất phát từ tình yêu, mà từ lòng tham của một kẻ quyền uy, nghĩ rằng mình đã muốn điều gì thì đương nhiên phải có. Tuy nhiên Kor là một thánh nữ của đến thờ Thái Dương, cô là “trái cấm” không thể nào đụng tới.
Tại thời kì đó, các nhà tiên tri dự đoán về việc địa cầu sắp đổi trục, nên chuẩn bị xảy ra những trận cuồng phong dữ dội hay những cơn địa chấn có thể làm diệt vong cả châu lục, vì vậy hoàng đế đã lên danh sách những người sẽ được lên thuyền để di dân sang lục địa khác.
Mặc dù tôi có kiến thức uyên thâm về y học, nhưng lại đang âm thầm theo đuổi tà giáo nên không được lựa chọn. Kor thì lại được lên thuyền rời xa mảnh đất này. Điều đó khiến tôi đứng ngồi không yên, chẳng đoái hoài đến sự diệt vong đang cận kề trước mặt, mà chỉ quan tâm làm sao để chiếm đoạt “trái cấm” của mình.
Nhờ sự đa mưu của một người bạn tên Beru, tôi đã lừa được Kor đến một căn hầm được sắp xếp từ trước. Như dự tính, tôi như con thú hoang, tham lam và ích kỉ, đã cưỡng bức cô thánh nữ trong trắng, thánh thiện, một cô gái đã có lời thề quyết giữ mình trong sạch.
Sau khi đã đạt được điều mình muốn, không hiểu sao tôi lại có chút dày vò khó chịu, khác hẳn với những lần ân ái với các cô gái khác.
Trời trở sáng, khi vừa bước ra khỏi cửa hầm, tôi hoảng hốt thấy xác người chết la liệt, một đám sinh vật “nửa người, nửa thú” hung bạo chém giết khắp nơi. Ồ không ! Xứ Og đã đem quân tới xâm lược xứ Arya chúng tôi.
Tôi quay lại hầm, vì cây gậy ngọc vẫn còn để trong đó, một vài tên liền đuổi theo tôi. Tôi chạy thật nhanh, và khi tay vừa chạm vào gậy, vung nó lên, một ánh sáng chói lòa tỏa ra. Lập tức không ai dám tới gần. Bọn “nửa người, nửa thú” chỉ cần chạm phải cây gậy đó, lập tức thân thể chúng sẽ bị phá tan đến từng phân tử ngay. Đây là một thành tựu khoa học siêu việt nhất của Atlantis, và chúng biết điều đó.
Đang định một mình liều mạng mở đường tẩu thoát, việc này không quá khó, vì bọn xứ Og kia vẫn luôn sợ thứ vũ khí tôi đang cầm. Xong tôi chợt bắt gặp ánh mắt của Kor như đang van lơn tôi cứu cô ta. Nếu không, cô ta chắc chắn sẽ chết thảm dưới tay bọn lông lá xồm xoàm này.
Không hiểu sao lúc đó tôi lại động lòng, trào lên một cảm giác thương xót kì lạ. Nên tôi đã quay lại, đưa tay nắm lấy tay Kor, dẫn cô cùng trốn thoát. Nói là kì lạ, bởi vì với thân xác tham lam, hung bạo, ích kỉ của người Atlantis khi đó, tình thương hay lòng trắc ẩn là một cảm giác gì đó mới lạ, chưa hề có cả khái niệm về nó.
Khi tôi đưa Kor tẩu thoát thành công khỏi đám nửa người nửa thú đó trở về đền thờ Thái Dương, thì cũng là lúc cơn địa chấn bắt đầu xảy ra đúng như dự đoán của các nhà tiên tri.
Một luồng nước khổng lồ cuồn cuộn từ dưới biển nổi lên, cuốn đi và nhấn chìm mọi thứ chỉ trong tích tắc. Trong lúc mọi vật xung quanh đang vỡ nát dưới sức mạnh của cơn địa chấn, trong giây phút sinh tử cận kề, trong tôi bỗng trào lên một cảm xúc khó tả, thôi thúc tôi bước tới bên Kor, cầm chặt tay nàng thì thầm một câu có lẽ chưa bao giờ có trong ngôn ngữ của người Atlantis:
-Kor nàng ơi! Ta rất lấy làm tiếc. Ta xin lỗi nàng! Ta sẽ không bỏ nàng.
Và rồi trong luồng nước xoáy hung dữ điên cuồng, chúng tôi đã không còn hay biết gì nữa.
Tôi bừng tỉnh lại, thấy mình đang ngồi trên chiếc ghế bành nhà ông Kris. Cây gậy vẫn bên cạnh. Ồ, hóa ra nó chính là cây gậy ngọc của tôi đã sử dụng từ thời Atlantis, thảo nào tôi thấy nó rất quen thuộc, không biết ông Kris đã làm cách nào tìm ra nó.
Ông Kris kể thêm rằng: sau khi Atlantis bị nhấn chìm, những người chạy thoát đến các nền văn minh khác như Ai Cập, đã truyền lại một số kĩ thuật và văn hóa của Atlantis cho dân bản xứ. Còn một Atlantis tân tiến và huy hoàng một thời, bỗng chốc đã bị thiên nhiên xóa sổ khỏi dòng chảy nhân loại không một chút khó khăn.
Vô thường ! Chẳng có gì thoát khỏi bàn tay của Vô thường, phát triển đến đâu thì vẫn chỉ nằm trong chu kì của thành – trụ – hoại – không mà thôi…
Bây giờ, thậm chí nhiều người còn không biết Atlantis đã từng tồn tại. Người ta chỉ có thể phỏng đoán từ một vài lưu truyền mờ nhạt trong sách vở, cùng lắm thì tìm thấy vài di tích dưới đáy Đại Tây Dương, như kim tự tháp, hoặc những cây cầu xây bằng đá nối liền những hòn đảo ở ngoài khơi Đại Tây Dương với các cột chống bằng đá hình tròn…
Ông Kris còn cho biết thêm, ngoài khơi Florida vốn chính là nơi xứ Og tọa lạc khi xưa. Người ta có thể tìm thấy di tích các đền thờ sinh vật của cõi giới khác dưới đáy biển. Ảnh hưởng của luồng từ lực ở nơi này vẫn tồn tại, và là nguyên nhân gây ra hiện tượng Tam Giác Quỷ Bermuda, nơi tàu thuyền đi qua thường bị mất tích một cách bí ẩn.
Khi tinh tú di chuyển vào vị trí nào đó, sẽ khích động, đánh thức luồng từ lực cực mạnh lạ lùng này tạo ra những trận cuồng phong bất ngờ, đánh chìm tất cả mọi vật quanh đó.
Với tôi lúc này, thực sự thế giới quan đã hoàn toàn thay đổi. Những thứ tưởng chừng chỉ có trong truyền thuyết hay những câu chuyện thần thoại hóa ra không hẳn không tồn tại. Những thứ tưởng chừng không thể lý giải nổi, hóa ra cũng đều có nguyên do của nó.


Phần 2 : VỊ PHARAOH XỨ AI CẬP

 
Trở về với cuộc sống hàng ngày tại New York, một hôm tôi tới khu phố kim cương (Diamond District) để xem các món đồ trang sức cùng Angie, người vợ thân yêu của tôi.
Khi bước vào một cửa hàng, tôi nhìn thấy trên tường có treo bức ảnh một chiếc nhẫn hình con bọ hung gắn hồng ngọc, chiếc nhẫn cổ đó đang được trưng bày tại viện bảo tàng Luân Đôn. Tôi nhận ra ngay đó là kiểu chiếc nhẫn mà ông Kris từng đeo. Không hiểu sao tôi có cảm giác chiếc nhẫn rất thân thuộc với mình, tôi thích nó ngay từ lúc mới nhìn thấy.
Nó là chiếc nhẫn của một vị Pharaoh thuộc vào thời đại cuối của triều đại các vua chúa Ai Cập, trước khi Ai Cập bị người Assyria xâm lăng vào khoảng hơn sáu trăm năm mươi năm trước Công nguyên.
Chiếc nhẫn đó khắc dòng chữ “Xin thần Thái Dương Amun Ra che chở cho tôi” Phía trong có hình chim ưng Horus, tượng trưng cho công lý. Tôi đã nhờ thợ kim hoàn chuyên chế tác trang sức cổ làm cho một chiếc nhẫn giống y hệt như vậy. Hai tháng sau, tôi đã nhận được nó.
Một hôm, khi đang ngồi trong phòng làm việc, vô tình tập trung nhìn chiếc nhẫn mà tôi đã đeo từ mấy tuần qua ở ngón trỏ. Tự nhiên có một mãnh lực kì lạ khiến tôi cảm thấy ngây ngất và thiếp đi lúc nào không biết. Tiềm thức lại đưa tôi trở về tiền kiếp của mình một lần nữa. Quá khứ hiện rõ ra như một cuốn phim.
Tôi thấy mình trong một thể xác khác, tôi không còn là Thomas của thời đại này nữa, lúc này tôi là Akhon, con của một thứ phi trong vương triều cổ đại Ai Cập. Mẹ tôi là một nô lệ người Kush xinh đẹp, nên được Pharaoh đưa về làm phi tần. Và tôi là con lai giữa hai dòng máu Ai Cập và Kush.
Do hai đất nước này thường gây chiến với nhau, nên tôi không được coi là hoàng tử chính thức. Sau khi mẹ mất, tôi thường bị các hoàng tử khác gây hấn bắt nạt. Vì thế mà tôi hay đến trú ẩn tại đền thờ thần Thái Dương, và được các giáo sĩ ở đây dạy dỗ.
Khi được mười hai tuổi, tôi được gửi đến vùng biên giới hoang vu dưới sự giám sát của một võ quan lớn tuổi. Được sự dẫn dắt của ông, tôi nhanh chóng trở thành một vị chỉ huy quân lực trấn đóng vùng biên thùy sa mạc. Do nhiều năm được mài dũa tại vùng sa mạc khắc nghiệt, nên tôi cũng trở thành người có ý chí và bản lĩnh vô cùng mạnh mẽ.
Năm đó, Pharaoh- cha tôi băng hà, cuộc chiến tranh giành ngôi vị đã nổ ra. Trong vòng một năm có tới bốn vị Pharaoh lên ngôi, ai cũng chỉ giữ cương vị trong vòng vài tháng, nên tình hình xã hội trở nên rối ren, hỗn loạn.
Lúc này các giáo sĩ tại đền thờ thần Thái Dương đã gọi tôi về để làm theo kế hoạch đã được vạch sẵn. Họ sắp xếp để tôi lấy con gái của Pharaoh hiện thời, vào ngày thành hôn của con gái, vị Pharaoh bất tài này đã bị hạ độc và chết ngay tại chỗ. Ngay lúc đó tôi đã được lên ngôi Pharaoh một cách vô cùng nhanh chóng.
Hôm sau, Satt – vị giáo sĩ đã lên kế hoạch chiếm ngôi vị cho tôi, đưa tới một thợ kim hoàn để làm chiếc nhẫn vương ấn. Tôi đã hướng dẫn ông ta:
“Ta muốn một chiếc nhẫn có đính viên hồng ngọc lớn, phía sau khắc chữ Xin thần Thái Dương Amun Ra che chở cho tôi. Vì tên ta là Akhon (chim ưng) nên ta chọn Horus, thần công lý có khuôn mặt chim ưng là vị thần bảo hộ quốc gia.”
Giờ đây tôi đã hiểu vì sao mình lại cảm thấy quen thuộc với chiếc nhẫn cổ ở bảo tàng Luân Đôn. Có gì lạ đâu, đó chính là chiếc nhẫn của tôi mà.
Khi đã trở thành Pharaoh, tôi cho thiết lập lại mọi điều luật để thắt chặt trật tự xã hội như ý mình muốn. Luật pháp trong tay tôi vô cùng nghiêm khắc và tàn bạo. Mỗi khi tôi giơ ngón tay đeo chiếc vương ấn lên, cả triều đình đều phải run sợ.
Tôi cũng khởi binh đánh dẹp những quốc gia quanh vùng, cướp bóc của cải đem về nước, và cho xây cất nhiều đền thờ Thái Dương tại các vùng biên địa, nên được giới giáo sĩ vô cùng ủng hộ.
Giờ đây, tôi đã có mọi thứ trong tay, quyền uy tột đỉnh, châu báu vô số, được bao người kính sợ, tôi có được những thứ bao người ham muốn mà chẳng thể có được. Nhưng không hiểu vì sao tôi lại luôn có một cảm giác thiếu thốn, cô độc, trống vắng đến kì lạ.
Lớn lên và được dạy dỗ bởi các giáo sĩ, nhưng tôi vẫn cảm thấy không thỏa mãn với những kiến thức họ dạy tôi. Tôi vẫn có những thắc mắc trong lòng không thể lý giải. Tôi hiểu rất rõ các giáo sĩ họ sống thế nào, suy nghĩ ra sao. Họ lấy các vị thần ra để dọa nạt dân chúng, khiến họ sợ mà dâng cúng vật phẩm cho họ. Họ chỉ giải thích bâng quơ, lắt léo ngôn từ chứ không thể khỏa lấp những hoài nghi thắc mắc của tôi – những câu hỏi mang tính trí tuệ thực sự.
Một lần tôi quá chán ngán với cảnh hoàng cung tráng lệ, thừa mứa vàng ngọc mà rỗng tuếch về trí tuệ ấy, nên đã một mình mặc đồ thường phục, đi lang thang ra khỏi thành.Vừa đi vừa miên man những câu hỏi.
Tại sao tôi- một kẻ mang 2 dòng máu, không được coi là hoàng tử chính thức, nay lại được làm Pharaoh? Tại sao có người rất giàu có, người lại đói nghèo? Tại sao có người được sinh ra ở nơi đất đai trù phú như dòng sông Nile ở Ai Cập, trong khi có người phải sống ở nơi đất đai khô cằn như xứ Kush?
Con người được sinh ra để làm gì nếu như mọi việc đều do các vị thần sắp đặt? Nếu Pharaoh là sự kết nối giữa các vị thần và nhân dân, thì ta phải biết rõ ý muốn của chư thần chứ? Vậy ý nghĩa của cuộc đời này rốt cuộc là gì?
Đang miên man với hàng loạt câu hỏi trong đầu, tôi bỗng nhìn thấy ngôi nhà của một vị y sĩ chữa bệnh cứu người. Ở đó tôi bắt gặp một cô gái mang dáng vẻ dịu dàng, chân chất, đang bồng bế những đứa trẻ và vỗ về chúng với ánh mắt trìu mến. Có một thứ gì đó rất lạ với tôi, nên tôi tìm vị y sĩ ( ông ta không nhận ra tôi là Pharaon) và hỏi về cô gái kia.
Vị y sĩ cho biết đó là Cihone, một đứa trẻ mồ côi được vợ chồng ông đem về nuôi từ nhỏ. Cô bé có một trái tim biết yêu thương vô điều kiện với tất cả mọi người – một điều hiếm thấy ở xã hội thời đó.
Ông nói, với những đứa bé bị bệnh mà chính ông cũng không chữa được nữa, ông sẽ giao nó cho Cihone để cô âu yếm vỗ về, trao tình yêu thương cho các bé. Rất kì lạ, nhờ các bé cảm nhận được tình yêu thương đó, tinh thần chúng thay đổi hẳn, mà cuối cùng lại giữ được mạng sống.
Do lệnh của các Pharaon (tức là tôi và cha ông của tôi), cha mẹ chúng bị bắt đi làm phu xây dựng những đền đài, lăng tẩm thờ cúng, ngày đêm quần quật với những công trình bất tận mà không còn thời gian đâu cho con cái. Những đứa trẻ ngày càng bị thiếu tình yêu thương của cha mẹ.
Chúng lớn lên với một tâm lý mất cân bằng, dễ bị bệnh. Cho dù sau này đã trưởng thành, nếu khá giả, thì cũng dễ mắc các bệnh về thần kinh, nếu nghèo cùng, chúng sẽ rất dễ phạm tội.
Chúng sẽ có lối sống lệch lạc, thích bạo lực, vô cảm, ích kỉ, tham lam, cộc cằn, dễ dàng làm tổn thương mọi người… Tất nhiên rồi, chúng khó lòng có thể yêu thương khi ngay từ nhỏ, chúng hiếm khi cảm nhận được yêu thương. Và khi trong tâm thiếu vắng tình thương, thì thay vào chỗ đó sẽ là những tính xấu. Và nếu xã hội phần đông là những người như thế, chắc chắn sẽ có vấn đề.
Cách cai trị hà khắc, coi trọng về quân sự và hình phạt, dù mặt lợi là không quốc gia nào dám đến trinh phạt, xong mặt khác lại khiến xã hội mất cân bằng. Nhất là việc thích bày vẽ xây cất lăng tẩm của triều đình chỉ nhằm thỏa mãn hư vinh cho vua chúa, và có lợi cho nhóm giáo sĩ, chứ chẳng lợi lạc gì cho quần chúng nhân dân, thậm chí đời sống của dân ngày càng cực nhọc, vất vả, khổ sở, và còn làm thâm hụt ngân khố quốc gia một cách trầm trọng. Đời sống tinh thần xã hội ngày càng nghèo nàn, con người trở nên biến chất, hung bạo hơn, và kéo theo nhiều hậu quả khó lường với những cuộc đấu đá, tranh giành bất tận.
Tôi thực sự sốc và cảm thấy khó chịu với suy nghĩ này của ông y sĩ. Nhưng tôi cũng đã giật mình và bắt đầu trăn trở về nó. Ông ta thẳng thừng nói ra sự tồi tệ của Pharaoh, của giới cầm quyền mà không hề biết mình đang đối diện với ai. Tôi bắt đầu nổi giận, xong kìm lại không nói ra thân phận của mình, nếu để ông ta biết tôi là Pharaoh, thì tôi cũng chẳng được nghe những lời chân thật hiếm hoi này.
Tôi sững người vì thái độ bất mãn của ông nhưng không thể phủ nhận những gì ông nói đều rất đúng. Không ngờ một y sĩ thôn quê lại có những tư tưởng vượt trội, có tầm nhìn trí tuệ, bỏ xa mọi viên quan cao cấp trong triều, bỏ xa cả tôi – một Pharaoh được khắp nơi nể sợ.
Tôi đặc biệt bị thu hút bởi Cihone, người con gái chân chất, đầy tình thương kia. Và khi biết cô đã có vị hôn phu của mình, không hiểu sao tôi lại khó chịu và cảm thấy bất lực. Mặc dù nếu như tôi muốn thì đương nhiên cô sẽ thuộc về tôi với một câu hạ lệnh, nhưng tôi không thích làm cách đó. Tôi cáo biệt y sĩ, rồi lặng lẽ về cung.
Sáng hôm sau, cái cảm giác khó chịu ấy vẫn không biến mất. Tôi quyết định một mình phi ngựa ra vùng sa mạc. Ánh nắng lan tỏa trên những cồn cát trập trùng trải dài trong sa mạc, khiến tôi cảm thấy như có một sức sống kì diệu đang bao trùm vạn vật.
Tôi tự hỏi trong tâm thức “Hiện nay thần Thái Dương Amun Ra đang ở đâu”. Tôi dừng ngựa, lặng lẽ nhìn ngắm những vệt sáng chạy dài ở cuối chân trời.
Hốt nhiên cảm nhận được một cái gì đó dịu dàng, mềm mại như bàn tay của đấng Thái Dương đang dang rộng ra để chào đón tôi. Như có gì đó thúc đẩy tôi quỳ xuống, dâng lên Ngài một lời cầu nguyện thiết tha, lời cầu nguyện của một tín đồ trung thành, chứ không phải của một Pharaoh oai phong lẫm liệt.
Tự nhiên tôi cảm thấy mình chìm ngập trong một bầu ánh sáng bao la vô tận. Tôi cảm nhận được có điều gì đó lạ lùng đang chuyển hóa trong tâm mình. Tâm hồn tôi bỗng nhiên như được mở rộng, và tôi cảm nhận rõ một cảnh tượng lạ lùng đang xuất hiện.
Một cảnh tượng huy hoàng sáng chói hiện ra trước mặt tôi, và tự nhiên tôi ý thức được rằng mình không thể tìm ngài ở bên ngoài mà phải tìm ở bên trong tâm mình.
Vừa nghĩ như thế thì như thể có một bàn tay vô hình gỡ đi tấm vải từ lâu đã che mắt tôi. Bấy lâu nay, tôi vẫn tìm kiếm đấng Thái Dương qua các nghi thức dâng cúng phẩm vật, nhưng lúc nào Ngài cũng lần tránh tôi.
Bây giờ giữa sa mạc mênh mông này, Ngài lại hiện diện bên cạnh và thì thầm rõ vào tai tôi: “Tại sao trước giờ ngươi lại mải miết đi tìm kiếm ta ở bên ngoài? Hãy quay vào bên trong nội tâm, ngươi sẽ gặp ta!”
Tôi đã lặng người trong giây phút cảnh giới xuất thần lạ lùng đó và dường như dần hiểu ra nhiều điều, đầu óc tôi trở nên sáng suốt lạ thường. Tôi ngây ngất trong cảm giác này và chợt hiểu rằng đấng Thái Dương chính là nguồn an lạc vô biên. Tại sao ngài lại làm vậy?
Câu trả lời đến ngay với tôi:
“TA LÀ TÌNH THƯƠNG”
Tôi giật mình tỉnh dậy và thấy mình đang ở trong phòng làm việc tại New York. Sau đó, tôi có qua gặp ông Kris. Ông luôn đọc được suy nghĩ của tôi, biết tôi đang mong muốn điều gì mà chưa cần tôi mở lời.
Theo lời ông, tôi biết những gì tôi nhìn thấy thực sự là hai tiền kiếp xa xưa của mình. Thời gian ở Atlantis xảy ra khoảng hơn mười hai ngàn năm trước Công nguyên, rồi đến Ai Cập khoảng ba ngàn năm trước Công nguyên. Vậy thì điều gì xảy ra giữa hai kiếp sống đó? Liệu tôi còn ở đâu nữa không?
Ông Kris giải thích cho tôi, khi con người ta chết đi, đầu thai lại một kiếp sống mới, không phải lúc nào cũng làm người, có khi là chúng sinh ở một cõi khác, tùy theo nghiệp lực của bản thân.
Và sau kiếp ở Atlantis, do tôi đã sử dụng tà thuật để chiếm đoạt người nữ tu trong trắng trong đền thờ Thái Dương, do đó phải chịu hậu quả tái sinh rất nhiều kiếp thành loài sâu bọ. Và vì tôi đã say mê đôi chân trần của Kor, tư tưởng đó đeo bám tôi nhiều lần, nên khi đầu thai làm sâu bọ, thì đó là loài sâu bọ chuyên hút máu mủ trong các bàn chân phụ nữ.
Sau hàng triệu kiếp làm côn trùng, sau đó lại chuyển kiếp thành các loài vật khác trước khi được chuyển sinh trở lại làm người. Giống như trong kinh Phật nói, cơ may được làm người rất hiếm, trong hàng triệu kiếp mới được vài kiếp người, còn lại là những kiếp làm súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục…
Nếu chúng sinh nào chẳng biết tu nhân, tích đức, tạo phước gì cả, chỉ cắm đầu vào cung phụng cho tham lam, dục vọng, ích kỉ, tạo nghiệp, thì tỉ lệ sinh làm người còn thấp hơn nữa, hàng tỉ kiếp, hàng vô số kiếp một có một kiếp người, chứ chưa nói đến việc sinh làm thần, làm chư thiên.
Cũng may vì trước kiếp sống ở Atlantis, tôi đã từng giúp đỡ, chữa bệnh cho rất nhiều người, gieo rất nhiều nghiệp lành. Nhờ những nhân duyên đặc biệt này nên khi chuyển kiếp trở lại làm người, tôi được làm Pharaoh cai trị một vương quốc lớn, hưởng thụ mọi sự vui sướng tột đỉnh.
Tuy nhiên trong tâm của tôi vẫn còn sự hung ác của dân Atlantis nên đã trở thành một vị Pharaoh độc tài. Trước khi qua đời tại Atlantis, trong tâm tôi sinh tâm hối hận và nảy sinh tình thương đối với Kor.
Đây là một năng lực chuyển hóa rất mạnh, vì người Atlantis lúc đó chưa hề biết hối hận hay yêu thương. Chính cái nhân duyên hãn hữu này nên sau khi trải qua nhiều kiếp thú, tôi được tái sinh thành người tại Ai Cập.
Tối hôm đó, ông Kris đã giúp tôi trở về kiếp sống ở Ai Cập một lần nữa. Ông bảo tôi ngồi lên chiếc ghế bành tĩnh tâm một lúc. Ông bước đến nói nhỏ vào tai tôi một câu bằng thứ ngôn ngữ lạ lùng khiến tôi thiếp đi và trở lại với kí ức khi xưa ở Ai Cập.
Vị Pharaoh – chính là tôi của kiếp trước, sau lần gặp gỡ với vị y sĩ và cô gái có tình thương vô điều kiện, đang cảm thấy như đã nhận ra điều gì đó vô cùng quan trọng của tình thương.
Và tôi cũng vô cùng giận dữ vì sự lộng hành của các giáo sĩ trong việc hối thúc, xúi giục Pharaoh xây dựng quá nhiều đền thờ và lăng tẩm khiến thâm hụt ngân quỹ, bóc lột hành hạ thợ xây, khiến gia đình con cái họ cũng thiếu đi sự ấm áp vì ngày ngày người đàn ông trong nhà chỉ lo đi xây lăng tẩm.
Xa hơn, nó thúc đẩy Pharaoh phải tiến hành các cuộc xâm lăng, chiến tranh đẫm máu với các quốc gia khác để cướp bóc của cải, nô lệ. Bao nhiêu máu chảy đầu rơi, bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, chỉ để xây mấy cái đền thờ, lăng mộ chết tiệt.
Nhận thấy đây là một sai lầm lớn, tôi đã cho ngừng ngay việc xây dựng lại, cũng như dừng việc đem quân xâm lược các nước khác để cướp bóc, dù biết rõ những hệ quả có thể kéo theo do việc dừng đột ngột như vậy. Tôi cũng không cho phép triều đình được tăng thuế bởi nghĩ tới sự khốn khổ của dân chúng.
Và như thế, tôi đã đối đầu trực diện, tuyên chiến với giới giáo sĩ, vì lợi ích của chúng gắn chặt với việc xây cất, thờ phụng thần linh. Chúng dù không dám ra mặt chống lại tôi ngay, xong sẽ âm thầm tìm cách lật đổ tôi, và sức ảnh hưởng của đám giáo sĩ đông đảo này cũng không phải dạng vừa.
Nhưng mặc kệ, tôi quyết định phải thay đổi bất chấp hậu quả sẽ như thế nào. Tôi đã tiến hành một cuộc cách mạng thực sự. cả bên ngoài với việc triều chính, cũng như ở bên trong nội tâm chính mình.
Một lần, viên quan trông coi việc xây dựng lăng tẩm của tôi phạm tội. Theo luật, anh ta bị xử tử và cả nhà vợ con anh ta bị đày tới sa mạc. Vợ anh ta đang có thai, và cô ta tìm mọi cách đến gặp tôi và van xin rất thảm thiết, vì phụ nữ có thai bị đày vào sa mạc thì không khác gì tử hình.
Lần đầu tiên, tôi biết như thế nào là lòng trắc ẩn, động lòng thương xót. Và tôi đã hạ lệnh tha cho cô ta.
Tôi bắt đầu suy nghĩ về tình thương, nghĩ đến đấng Thái Dương và trải nghiệm lạ lùng nơi sa mạc. Tôi chạnh lòng nghĩ về địa vị Pharaoh quyền uy và sự cô đơn trong cung điện này.
Hóa ra tất cả những gì tôi đang có cũng chẳng mang lại cho tôi niềm hạnh phúc. Tôi ước được làm một thường dân và có một người vợ dịu dàng, hòa nhã, luôn đầy ắp tình thương như Cihone. Có lẽ tôi đã dần thức tỉnh rồi.
Bất chợt, tôi tỉnh dậy, thấy người ướt đẫm mồ hôi, đang ngồi tựa lưng, hai tay nắm chặt vào thành chiếc ghế bành nhà ông Kris. Chưa kịp biết cuộc cách mạng mà tôi đã khởi động kết quả ra sao thì đã tỉnh. Tôi phải nhờ ông Kris kể lại mới biết.
Kiếp sống ở Ai Cập của tôi đã kết thúc trong bi thảm. Tôi bị nhóm giáo sĩ đầu độc chết, những nỗ lực cải cách của tôi cuối cùng không đi về đâu. Vì lăng tẩm chưa được xây cất xong, nên hoàng hậu Nedjem đã âm thầm mai táng tôi một cách vội vàng ở một nơi khác, ít lâu sau ngôi mộ cũng bị kẻ trộm đào lên trộm cắp tài sản châu báu.
Tuy không thay đổi được xã hội Ai Cập thời đó, nhưng cuộc cách mạng vẫn thay đổi được chính con người tôi, giúp tôi thăng tiến lên một tầng nhận thức cao hơn trong tiến trình luân hồi vô lượng kiếp.
Nhân quả luôn đúng, không hề sai chạy. Vì nghiệp quả của các cuộc chiến tranh mà vua quan và quân đội Ai Cập đã gây ra trong suốt thời gian dài, mà sau nay chính đất nước Ai Cập đã phải chịu cảnh bị xâm lược, bị đô hộ suốt ba nghìn năm dưới ách cai trị của người Assyria, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã, Ả Rập, Pháp, Anh.
Nhớ lại về hoàng hậu Nedjem và cô gái Cihone, vì tôi đã có mối liên hệ khá sâu sắc về tinh thần với những người phụ nữ này, nên tôi cũng sẽ gặp lại họ ở những kiếp sau.


Phần 3: NÀNG DÂU BẤT HẠNH XỨ ASSYRIA

 
Ông Kris nói rằng tôi vốn dĩ đã có sự tu tâp thiền định từ nhiều kiếp trước, tôi đã có thể nhớ ra được các kiếp sống trong luân hồi của mình khi đi sâu vào thiền định. Nhưng vì sau khi đầu thai chuyển kiếp, tôi đã không còn nhớ gì nữa. Nên nay tôi cần phải nhớ lại việc đó.
Tại nhà nghỉ dưỡng ở Colorado, vợ chồng tôi có quen biết với một người phụ nữ đã gần chín mươi tuổi tên Ginger T sống gần căn nhà của chúng tôi. Bà vốn từng là một diễn viên Hollywood rất nổi tiếng và xinh đẹp vào thời thanh xuân của bà. Nay bà cũng vẫn còn rất đẹp, nhưng phải sống cô độc , lủi thủi một mình trong căn nhà toàn những thứ đắt tiền.
Từ ngay lần gặp đầu tiên tôi đã có cảm giác người phụ nữ này vô cùng quen thuộc với mình, như thể chúng tôi đã quen biết nhau từ kiếp trước. Bởi mọi sự gặp gỡ trên đời này không phải là ngẫu nhiên, mà thực ra đều có nhân duyên của nó.
Vì chưa nhớ lại được bằng khả năng của chính mình, nên ông Kris đã giúp tôi một lần nữa. Tôi lại ngồi yên một lúc cho đến khi ông Kris thì thầm vào tai tôi bằng một thứ ngôn ngữ lạ lùng cho đến khi tôi thiếp đi. Kiếp trước dần hiện ra…
Ở kiếp sống này, tôi không còn là thân nam nữa mà là một cô gái tên Seriram, là con thứ ba trong một gia đình người Assyria sống du mục trên sa mạc vùng Tây Á.
Tuy là con gái nhưng tôi lại vô cùng mạnh mẽ, tôi có thể quán xuyến mọi việc của các đấng nam nhi. Tôi có người chị lớn là Shamuram và người anh tên là Nimurta. Cha là tù trưởng của một bộ lạc. Chỗ chúng tôi sinh sống là nơi buôn bán, trao đổi hàng hóa quan trọng giữa các bộ lạc trong sa mạc.
Khác với tôi học giỏi, luôn biết lo toan, tính toán cẩn thận cho gia đình; chị gái tôi lại chỉ thích làm đẹp, trang điểm, phấn son. Anh trai tôi lại chỉ thích âm nhạc và chơi đàn, cũng không quan tâm gì chuyện học hành cả. Tuy tôi chu toàn như vậy nhưng mẹ lại không hài lòng.
Bà cho rằng con gái không cần thiết phải học nhiều hiểu rộng như thế. Chị gái xinh đẹp của tôi, cả ngày chỉ quần áo phấn son, tính tình cẩu thả, chẳng làm được gì, nhưng lại được cha mẹ thương yêu nhất. Điều đó làm tôi có chút bất mãn.
Tôi là người cẩn thận, chi tiết, làm việc có trách nhiệm, có thể nắm bắt tình hình hàng hóa một cách nhanh chóng, tinh nhạy. Chính vì vậy tôi rất khó chịu với hai anh chị của mình khi thấy họ không thể làm được như tôi.
Ban đầu tôi chỉ nghĩ mình giỏi, mình đúng, mà không nghĩ rằng đó cũng chính là điểm yếu khi tôi cứ suốt ngày đi so sánh người khác với mình, yêu cầu họ phải giống mình, phán xét và phê phán họ.
Sau này, khi có các đoàn thương buôn từ nơi khác đến, tôi và chị gái mình đã được cha mẹ sắp xếp thành hôn với một trong số những người con trai của trưởng đoàn.
Chị tôi xinh đẹp hơn tôi, ngay lập tức lọt vào mắt xanh của một gia đình vô cùng giàu có, gặp được vị hôn phu tử tế. Tôi thì được gả cho một gia đình bình thường hơn. Buồn thay, người chồng của tôi lại là một kẻ xấu xa, tệ hại.
Tôi phải xa cha mẹ, xa miền sa mạc vốn đã quen thuộc, đến sinh sống tại nhà chồng ở thành Ashur náo nhiệt. Nơi phồn thị và sa mạc là hai môi trường sống khác nhau hoàn toàn.
Tôi từ một cô gái con tù trưởng oai phong lẫm liệt, trong tay kiểm soát mọi việc lớn nhỏ, nay ở nhà chồng như một người ngu ngơ, quê mùa, chẳng hiểu gì, chẳng biết gì. Cả gia đình chồng cũng chỉ coi tôi như con ở.
Chồng tôi không khác nào một tên hoang dâm. Tôi cảm thấy ghê tởm người đàn ông này. Không chỉ chồng mà cả nhà chồng đều đối xử với tôi vô cùng khắc nghiệt. Mẹ chồng hễ không hài lòng điều gì là chửi mắng tôi thậm tệ, sau đó bà lại lên cơn hen suyễn, vừa ho khan vừa khó thở. Bố chồng tôi mắc bệnh dạ dày ăn uống khó khăn, chẳng ăn được gì mấy.
Tôi đã lạ lẫm với cuộc sống nơi đây, lại thêm hoàn cảnh khắc nghiệt, nhà chồng sỉ vả. Họ còn khóa tôi ở trong bếp đánh đập, bỏ đói nhiều ngày. Dần dần năm này qua tháng khác, tôi chán ngán tột cùng, tích tụ lòng oán hận, và thường ngửa lên hỏi trời cao vì sao bắt tôi chịu nỗi bất công như thế này.
Vì sao chứ ? Sao một người giỏi giang như tôi lại phải chịu cái cuộc đời bế tắc với một gã chồng tồi tàn như vậy chứ ?
Là một người con gái cứng cỏi, cang cường, tôi nhất quyết không van xin, khuất phục trước sự bạo hành của gia đình chồng. Cuối cùng, sau nhiều việc không mong muốn xảy ra, cha tôi phải bỏ thêm một khoản tiền, giống như tiền chuộc đưa cho gia đình nhà chồng, tôi mới được giải thoát khỏi cái chốn địa ngục ấy.
Xong tôi không được trở về nhà, do tập tục của bộ lạc cho rằng phụ nữ đi lấy chồng rồi thì không còn thuộc về gia đình nhà đẻ nữa. Vậy là tôi được cha gửi ở Ba Tư theo một người bạn của ông.
Tôi giỏi giang là vậy nhưng số phận luôn đối xử tồi tệ với tôi. Ngược lại, chị tôi chả có tài cán gì, chỉ biết son son phấn phấn, thì lại luôn gặp được may mắn và hạnh phúc. Vì lẽ đó, tôi càng cảm thấy cuộc đời bất công.
Chính cha tôi đã cảnh báo nhiều lần rằng tính cách của tôi sẽ làm tôi khổ, chứ không hay ho gì. Bởi vì tôi hay tự mãn về bản thân, luôn cho mình là giỏi, là đúng, hay phê phán, cãi cọ với người khác, không bao giờ chịu nhún nhường, lùi bước.
Nhưng tôi lại không nhận ra điều đó và không phục những lời cha nói với tôi. Tôi luôn cho những sự việc xảy ra là do hoàn cảnh trớ trêu, bất công, chứ không phải tại bản thân mình. Do những va vấp đau thương trong cuộc sống, giờ đây tinh thần tôi luôn chán chường, sống nốt những năm tháng buồn tẻ, nhạt nhẽo ở Ba Tư, và chết vì bệnh khi tuổi vẫn còn trẻ.
Những trải nghiệm của tôi trong kiếp này khiến tôi vô cùng sợ hãi với thân phận người phụ nữ nhiều thống khổ. Những thành kiến về trọng nam khinh nữ vẫn cứ tồn tại như vậy đi qua chiều dài của lịch sử mà chẳng thay đổi chút nào.
Sau khi tỉnh lại, ông Kris có giải thích với tôi rằng nhân quả rất công bằng, gieo nhân thì phải gặt quả báo, đó là điều rất tự nhiên. Như trong kiếp sống tại Assyria vừa qua, Nabu-cha chồng tôi mắc chứng đau dạ dày, không ăn được nhiều, vì kiếp trước ông này là người tham ăn, ăn uống vô độ, phung phí rất nhiều thức ăn, do đó trong kiếp sống tại Assyria, ông ta được sinh ra với bộ máy tiêu hóa yếu ớt, khiến phải hạn chế việc ăn uống.
Tôi không biết Nabu có biết tự đặt câu hỏi tại sao mình lại bị vậy hay không. Người thông minh phải biết đặt câu hỏi chứ không nên trách trời trách đất. Trái đất này có đầy đủ thức ăn cho tất cả mọi người, mọi loài sinh vật. Sở dĩ có người thiếu ăn là do có ai đó phung phí thức ăn hoặc tham lam lấy đi phần ăn của người khác.
Cũng như thế, Garu-mẹ chồng tôi trong kiếp đó mắc chứng hen suyễn, ho khan và khó thở. Là do kiếp trước bà ta là người quyền lực, thường áp bức những người dưới quyền. Nếu không biết suy xét để thay đổi mà vẫn chứng nào tật đấy chuyên mắng nhiếc người khác, thì bà ta sẽ còn phải trải qua nhiều kiếp sống với những căn bệnh quái ác hơn, để học được bài học mà bà ta phải học.
Bản thân tôi kiếp này thông minh sắc sảo, nhưng vì luôn kiêu mạn, cho người khác là sai, mình là đúng, vì cái nhân cho rằng mình tài giỏi hơn người, tự đánh giá mình quá cao, nên nghiệp quả trổ ngay trong một kiếp. Tôi đã phải làm nô dịch hầu hạ kẻ khác để bỏ tính xấu xa đó đi.
Tôi rút ra được rằng đừng bao giờ ngạo mạn và phán xét người khác, cho dù họ sai lầm hay có trình độ thấp kém thế nào đi nữa. Vì bất cứ một tư tưởng hay lời nói nào cũng đều tạo ra “nhân”. Mà hễ có nhân thì sẽ có quả. Đó là quy luật rồi.
Nghiệp có thể đến bất cứ lúc nào, có khi đến nhanh, có khi đến chậm, cũng có khi tiềm ẩn chờ đến kiếp sau. Nhiều người không hiểu vì sao việc đó lại xảy đến với mình, bởi vì họ đã quên đi cái nhân mình từng gieo trước đó. Cái nhân do mình tạo ra sẽ chiêu cảm hoàn cảnh xung quanh để tạo ra quả. Gieo nhân nào sẽ gặp quả đó.
Tôi bàng hoàng nhận ra bà Ginger hàng xóm ở Colorado với gia đình tôi, người mà tôi lần đầu gặp gỡ đã cảm thấy vô cùng quen thuộc. Ginger chính là Shamuram, chị gái ruột của tôi trong kiếp sống ở Assyria.
Bà Ginger trong một kiếp xa xưa đã từng cứu giúp rất nhiều người, nên nhiều đời nhiều kiếp sinh ra đều có dáng vẻ xinh đẹp, cuộc sống sung túc, một trong những kiếp đó, bà là chị gái tôi ở Assyria. Nhưng khi đã đắm chìm trong sự hưởng thụ phước báo, thì bà lại trở nên tham đắm nhan sắc của chính mình, dần trở nên ích kỉ, ngạo mạn với người khác, chỉ biết mình mà chẳng nghĩ cho ai.
Đó là lý do vì sao bà Ginger kiếp này, dù xinh đẹp, thành đạt, giàu có, nổi tiếng, nhưng phải sống một cuộc đời cô đơn, không có hạnh phúc gia đình và cũng chẳng có con mặc dù đã trải qua ba đời chồng.
Bà không hề hại ai, nhưng cũng chẳng biết nghĩ đến ai, và sống cho ai. Nếu không biết suy xét chiêm nghiệm ra vấn đề, rẽ ra một lối đi khác, bà sẽ mắc kẹt mãi trong đó.
Một lần, vợ chồng tôi mời bà đến ăn tối, khiến bà rất vui, vì lâu rồi bà không được sống trong không khí thân tình với ai cả.
Chúng tôi trở thành bạn thân, khi đó, tôi khuyên bà nên đem kho tài sản quý giá, xong lại chẳng mang lại chút hạnh phúc nào cho bà, để tặng cho những người khác. Dường như có một cánh cửa mở ra trong tâm hồn bà Ginger, và bà rất hào hứng với kế hoạch tôi vạch ra.
Không lâu sau, một buổi bán đấu giá những kỉ vật quý giá của diễn viên Ginger vang bóng một thời được chúng tôi tổ chức tại Newyork với rất đông người đến dự, toàn bộ tiền thu được sẽ được lập thành một quỹ từ thiện mang tên Ginger. Bấy giờ, tôi thấy bà mỉm cười, một nụ cười thật hạnh phúc.
Còn người anh trai Nimurta của tôi hồi ở Assyria thì sao? Thật sự bất ngờ, khi anh ấy kiếp này đã chuyển sinh thành một người đàn ông tên Wilson, và vẫn có sợi dây liên hệ gắn kết với tôi.
Khi tôi mới khởi nghiệp trên thị trường tài chính New York, trong buổi kêu gọi vốn đầu tư của mình, một người đàn ông mặc quần jean, đội mũ phớt y như những anh chàng cao bồi Mỹ tên Wilson đến tham gia.
Lạ thay, ông ấy chẳng quan tâm tới chi tiết dự án của tôi như thế nào, mà chỉ hỏi vỏn vẹn một câu “Tóm lại ông cần số vốn bao nhiêu” Sau đó ngay lập tức ông mua 20% cổ phần, tương ứng với một số tiền rất lớn tại thời điểm đó. Ông gửi hợp đồng đã kí sẵn qua bưu điện cho tôi mà chẳng cần có luật sư làm chứng.
Sau đó tôi nhận được số tiền lớn đó sớm hơn cả ngày dự kiến. Tôi cũng vô cùng thắc mắc về trường hợp này. Ông nói với tôi đơn giản là ông ấy tin tưởng tôi mà thôi. Trong khi ở kiếp này, tôi và ông chưa từng quen biết. Trong quá trình đầu tư, ông cũng không tham gia, hỏi han gì mà để tôi toàn quyền quyết định.
Đến khi công ty làm ăn tốt, các cổ đông khác muốn lên nắm quyền, thì ông Wilson đã chủ động bán lại hết cổ phần cho tôi để tôi chiếm ưu thế về phần trăm cổ phần so với các cổ đông khác.
Thực sự mọi việc đều không phải ngẫu nhiên, ông Wilson cũng không phải tự nhiên mà tin tưởng tôi tuyệt đối như vậy. Đó là do trong kiếp sống ở Assyria, ông là anh trai tôi, ông vẫn có cảm quan về sự thông minh lanh lợi của tôi trong công việc, hơn nữa lại là anh em ruột. Và ngoài ra, chúng tôi còn có mối liên hệ trong nhiều kiếp khác nữa. Nên kiếp này ông mới gặp tôi đã vô cùng tin tưởng như thế.
Ngẫm lại, vào kiếp xưa ở Assyria, khi còn là em gái của họ, ông Wilson và bà Ginger, tôi hay trách móc, vạch lỗi họ với cha vì cách làm việc ẩu tả, thiếu chuyên nghiệp. Khi ấy, cái lỗi của họ đối với tôi là một cái gì đó thật to tát, khiến tôi hết sức bực bội. Thế nhưng, khi nhìn trên tổng thể nhiều kiếp, tôi thấy thực ra những việc đó không đáng gì. Khi mà cứ chăm chăm soi lỗi người khác, tôi chẳng còn sáng suốt đâu mà nhìn được cái sai, cái thiếu sót của mình, một kiếp sống trôi qua mà chẳng học hỏi được gì, đó mới là vấn đề.


Phần 4: CẬN THẦN CỦA ALEXANDER ĐẠI ĐẾ

 
Vài tháng sau đó, tôi tiếp tục tu tập theo pháp tĩnh tâm, thiền định mà ông Kris hướng dẫn (thực ra ông chỉ nhắc lại để tôi nhớ, bởi những kiếp trước tôi đã thành thục phương pháp này, có thể đạt được định và nhớ lại tiền kiếp, nhưng kiếp này đang tạm thời bị quên đi. Đó là lý do vì sao ông Kris xuất hiện để nhắc tôi nhớ lại).
Hôm đó, tôi đang làm việc trong văn phòng thì vô tình nhìn thấy trên báo cáo của một công ty có tên Leonidas, bên cạnh tên công ty là một logo được thiết kế theo mẫu tự Hy Lạp rất đẹp.
Tôi không có hiểu biết nhiều về ngôn ngữ Hy Lạp, nhưng mẫu logo này cho tôi cảm giác vô cùng quen thuộc, khiến tôi cứ nhìn mãi như bị thôi miên. Linh tính mách bảo, tôi lập tức khép cửa phòng lại để không ai có thể làm phiền, rồi ngồi thẳng lưng, nhắm mắt lại , tập trung cao độ tư tưởng vào những kí tự Leonidas và mẫu tự Hy Lạp cổ đó.
Giống như lần tôi có trải nghiệm hồi quy về kiếp sống ở Ai Cập cũng tại chính phòng làm việc của mình. Lần này tôi cũng dần dần chìm vào trạng thái an định, có điều tôi cảm nhận có luồng năng lượng ấm nóng dâng tràn trong cả cơ thể mình như ông Kris miêu tả. Cứ như vậy, tôi rơi vào một khoảng không vô cùng, rồi bước vào trạng thái nhập định.
Trong sự hồi tưởng tiền kiếp lần này, tôi nhận ra mình là Kyros – con của một nô lệ làm việc trong trang trại của một gia đình quý tộc thuộc vương quốc Macedonia. Chủ nhân của tôi tên Dimitris, là viên quan trông coi tài chính cho triều đình của vua Philip đệ nhị.
Ông có ba người con, đó là hai người con gái lớn Sophia, Isidora và cậu con trai út Leonidas. Từ bé tôi đã nghe người ta đồn thổi tôi là con ngoài dã thú của ông chủ Dimitris. Thực tế là như vậy, nhưng không ai dám nói gì và ông chủ cũng không nói lời thừa nhận tôi bao giờ.
Ông chỉ âm thầm cho tôi được phép lên biệt thự chơi cùng với con trai của ông là Leonidas. Người mà tôi đã nhận ra chính là Wilson kiếp này và là người anh trai Nimurta của tôi tại kiếp sống ở Assyria.
Nhờ được chơi cùng, nên tôi hay học mót mỗi khi các con của ông chủ được các thầy dạy học. Bản tính thông minh, tôi tuy học mót nhưng cũng nắm được nhiều kiến thức. Thầy Satyrus dạy về âm nhạc có hai người con là Melissa và Antigenidas. Vì đều chạc tuổi nhau, nên chúng tôi chơi với nhau khá thân thiết.
Thời gian trôi nhanh, chúng tôi cùng nhau lớn lên. Isidora càng lớn càng xinh đẹp và thường được săn đón nhiều hơn các cô gái khác. Sophia dịu dàng hiền lành, trong khi Melissa tương đối thầm lặng. Nhờ được chọn làm bạn chơi cùng Leonidas mà tôi không phải làm những công việc của một nô lệ vô cùng cực khổ.
Sau đó, các con của ông chủ được tới ngôi trường đầu tiên tại Macedonia để theo học vị triết gia Aristotle. Về phần tôi, ông chủ giữ lại để làm thư kí riêng cho ông, giúp ông phụ trách làm sổ thu chi cho triều đình.
Về bản thân tôi lại có tình cảm thầm kín với Isidora-con gái ông chủ mà chẳng dám nói ra, vì biết phận mình là con nô lệ, không dám với cao tới tầng lớp thượng lưu, quý tộc.
Vốn là người thông minh, tính toán giỏi, nên tôi được ông Dimitris tiến cử lên, và được Alexander đại đế tin tưởng để cho tôi phụ trách kiểm soát quân lương và sản xuất khí giới trong những năm vị đại đế này chinh phạt khắp nơi.
Suốt mười năm trôi qua, tôi đã tận lực hỗ trợ cho triều đình kiểm soát ngân quỹ. Vậy mà cuối cùng bị người ta vu khống tội biển thủ một số lượng vàng lớn. Tôi và ông chủ Dimitris cùng nhau phối hợp làm công việc này. Ông luôn rất hài lòng với sự kiểm soát của tôi.
Nhưng khi sự việc xảy ra thì ông đã chết, nên chẳng có ai minh oan cho tôi cả. Thậm chí Isidora còn sỉ vả và nhổ nước miếng vào mặt tôi, cô nói rằng tôi đã phụ lòng cha cô, người đã cưu mang tôi. Tôi vừa uất hận vì bị vu khống, nay lại bị chính người phụ nữ mình yêu thầm nói lời nhục mạ, phơi bày thân phận nô lệ của tôi trước tất cả mọi người, làm tim tôi càng đau nhói.
Vì vua Alexander đang đi chinh phạt xa xứ không thể phán xử vụ án của tôi, nên tôi đã bị giam cầm tại Pella suốt hơn hai năm trời. Đối với tôi đó là quãng thời gian dài đằng đẵng. Rồi cuối cùng thì vụ án của tôi cũng đến tai Alexander.
Ông cho điều tra và phát hiện ra tôi đã bị vu khống. Vậy là tôi được phóng thích, và bị mất hai năm sống trong lao ngục.
Trở về với mái nhà thơ ấu tại trang trại của ông Dimitris, tôi vô cùng bất ngờ khi biết ông đã để lại lá thư tuyên bố chính thức tôi là con trai của ông. Vậy là tôi được xóa bỏ hoàn toàn thân phận nô lệ, được trở thành công dân chính thức của Hy Lạp và được kết hôn với người nơi đây. Tuy nhiên, giờ đây Isidora và tôi lại là anh em cùng cha, khác mẹ, vậy thì giấc mộng được cưới nàng càng phải chấm dứt hoàn toàn.
Sau này khi phát triển được khả năng thiền định hơn, tôi mới phát hiện ra Isidora chính là thánh nữ Kor trong kiếp sống của tôi tại châu Atlantis.
Nhận ra điều này tôi mới thấm thía luật nhân quả khắc ghi và đeo bám tận cùng như thế nào. Không ai có thể gột bỏ hay trốn chạy khỏi những việc mình làm. Tôi đã hiểu rõ vì những tội lỗi trong kiếp sống tại Atlantis, khi tôi lập mưu hãm hãi một người con gái trong trắng.
Nhưng rất may ở khoảnh khắc cuối cùng khi cơn đại hồng thủy Atlantis ập tới, tôi đã không bỏ rơi Kor. Có lẽ sự chân thành cuối cùng này đã giúp tôi giảm nhẹ phần nào tội nghiệp từ lỗi lầm to lớn của mình, nên trong kiếp sống tại Hy Lạp, tôi bị cô nhục mạ, sỉ vả và kết tội một cách chua chát, nhưng cuối cùng chúng tôi lại trở thành ruột thịt của nhau.
Đặc biệt, tôi còn nhận ra cô gái lương thiện Melisa chính là Cihone duyên dáng đầy tình yêu thương tại kiếp sống ở Ai Cập. Ở kiếp sống này, cô vẫn là một người con gái cao quý, có tâm hồn thánh thiện, giàu tình thương, sẵn lòng bao dung ngay cả với những người đã tổn hại mình.
Mặc dù tôi có gặp lại cô trong kiếp sống tại Hy Lạp, nhưng vì duyện nợ giữa chúng tôi không có gì nhiều, nên chỉ là những người bạn giúp đỡ nhau khi cần.
***
Luân hồi này là thế, chúng ta cứ quanh quẩn sinh rồi lại tử, tử rồi lại sinh. Mỗi một kiếp sống, chúng ta đều phải trả nghiệp quả mà chúng ta đã gieo trong kiếp đó, hoặc nhiều kiếp trước. Mỗi một cuộc đời, quanh quẩn chúng ta vẫn cứ gặp lại những người đã có duyên nợ với mình từ trước. Nếu duyên lành thì mối quan hệ êm đẹp, nếu nghịch duyên thì mối quan hệ bế tắc, gây khổ sở cho cả hai bên.
Sau những trải nghiệm hồi quy chân thực về các kiếp sống của mình, tôi nhận ra rằng làm giàu không phải là mục đích quan trọng nhất của cuộc đời một con người. Quan niệm này rất phổ biến, nếu không muốn nói là cả xã hội đều đang bị cuốn theo nó.
Làm người ai rồi cũng sẽ phải chết, nhưng khi nào chết là điều không ai biết trước được. Do đó chúng ta phải biết nhìn lại và điều chỉnh cách sống, sống như thế nào để không uổng phí một kiếp người. Sống chỉ để theo đuổi tiền tài, danh vọng, hay quyền lực, hay mọi trò phù phiếm của thế gian là một chọn lựa rất vô nghĩa.
Bạn thấy đó, có kiếp tôi đã từng là Pharaoh đầy quyền lực, vàng ngọc chất đầy kho, cung nữ, quần thần cũng kính, vinh quang tột đỉnh. Nhưng rồi sao ? Tôi có thể đem số vàng ngọc cùng những vinh quang đó qua những kiếp sau, khi tôi làm một người phụ nữ khổ nhục ở Assyria, hay khi sinh ra với thân phận nô lệ ở Hy Lạp không ?
Không ! Chết là hết thôi, mà cái chết thì lại rất thường trực, kiếp nào sinh ra, thì rồi tôi cũng đều chết cả, không mang theo được gì. Cho dù có tiền rừng bạc biển, có công danh phú quý, thê thiếp vợ con bao nhiêu thì sau cùng cũng chỉ là phù du, mới đây chúng là của ta, thoáng cái đã là của ai khác. Chung quy không thực sự cái gì là của ta cả, chỉ là những thứ đến và đi qua cuộc đời mỗi người. Bám chấp, tranh giành, sân si vì chúng chỉ khiến ta chuốc khổ sở mà thôi.
Thực chất, việc thực hành các công việc thiện, giúp ích cho mọi người và nhân loại mới là việc cần thiết hơn. Chưa kể đến mục đích sâu xa, tối quan trọng, đó là tu tập giải thoát sinh tử luân hồi. Đó mới là cứu cánh giúp chúng sinh thoát được đau khổ hoàn toàn, để đạt tới cảnh giới Niết Bàn an lạc.
 
(Tĩnh Như, tóm tắt lại từ sách “Muôn kiếp nhân sinh” của tác giả Nguyên Phong)



0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận