( Trích kinh Bách Duyên)
Lúc ấy, Phật hóa độ qua các nơi trong nước Ma-kiệt-đề (nước mạnh nhất ở Ấn Độ hồi thời Phật Thích Ca ra đời, kinh đô là thành Vương Xá), đến bờ con sông Hằng.
Cách bờ sông Hằng chẳng bao xa, có một cảnh tháp cổ điêu tàn, hư rã bởi những cơn mưa sa nắng táp, không ai trông nom, tu sửa. Chư tỳ-kheo thấy cảnh ấy, bạch hỏi Phật rằng:
– Bạch đức Thế Tôn! Chẳng hay tháp ấy là tháp chi? Vì sao lại hoang tàn như vậy, chẳng có ai trông nom tu sửa?
Phật bảo chư tỳ-kheo:
-Các ông nên chú ý lắng nghe, ta sẽ vì các ông mà phân biệt giảng nói.
Này chư tỳ-kheo! Về thuở quá khứ, vào khoảng giữa Hiền kiếp này, nước Ba-la-nại có một vị vua tên là Brahmadatta (nghĩa là Đức Phạm Thiên ban cho)
Vua ấy trị nước đúng theo chánh pháp, nên nhân dân sung túc, giàu có, mùa màng bội thu, dân cư đông đảo, yên ổn làm ăn, chẳng có những nạn binh đao, dịch bệnh xảy ra trong xứ, lại thêm trâu bò, gia súc đều đông đúc.
Vua ấy không có con. Người rất buồn bực, thành tâm mà cầu đảo các vị thần thánh, nhưng chưa thấy ứng nghiệm gì.
Thủa ấy, trong vườn hoa của vua, nhằm lúc hoa sen đua nở. Có một búp sen hiện lên, to lớn lạ thường. Búp sen ấy càng ngày càng lớn, đến khi nở ra, bên trong thấy một hài nhi xinh đẹp ngồi theo lối kiết già, có đủ ba mươi hai tướng quý và
tám mươi vẻ đẹp, trong miệng tỏa ra hơi thơm của hoa ưu-bát-la (là loại hoa quý, tương truyền đến 3000 năm mới nở một lần), và các lỗ chân lông đều xuất ra mùi hương gỗ chiên đàn.
Bấy giờ, người làm vườn tâu lên với vua. Vua nghe chuyện lấy làm vui mừng, liền ngự ra vườn hoa, có triều thần với các vị hậu phi theo hầu.
Khi nhìn thấy đứa trẻ ấy thì vua bỗng vui mừng không tự chế được, lòng muốn chạy đến mà ôm lấy ngay. Đứa trẻ ấy vừa thấy vua liền lên tiếng nói rằng:
– Vì đại vương thường cầu thỉnh, nên nay tôi đến đây làm con của ngài.
Khi ấy, vua cùng với các vị hậu phi nghe lời ấy rồi thì thảy đều vui mừng, liền ẵm đứa bé về cung nuôi nấng.
Khi đứa trẻ dần dần lớn lên, mỗi khi đi đứng nơi đâu, chỗ bước chân đều nảy sinh lên những đóa hoa sen, còn các lỗ chân lông trong người thì tỏa ra mùi hương chiên-đàn thơm ngát, nhân đó mà đặt tên là Chiên Đàn Hương.
Bấy giờ, đứa trẻ ấy tự quan sát thấy những chỗ mình đi qua đều nảy sinh hoa sen, mới sanh thì tươi tốt, xinh đẹp, chẳng bao lâu liền héo úa, tàn lụi. Thấy như vậy rồi, liền tự suy nghĩ, thấy thân người cũng không bền chắc, giống như vậy không khác. Nhân đó mà ngộ hiểu được lý vô thường, chứng quả Phật Bích-chi.
Ngay khi ấy, thân thể liền bay được lên không trung, hiện đủ mười tám phép thần biến, rồi nhập Niết Bàn.
Khi ấy, vua và các vị hậu phi, cung nữ đều buồn thảm than khóc. Liền mang di thể đi thiêu hóa, thu nhặt xá-lợi, rồi lập tháp đặt vào mà thờ kính, cúng dường. Đó chính là ngôi tháp cổ mà ngày nay các ông thấy đó.
Chư tỳ-kheo lại hỏi Phật:
– Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng hay vị Phật Bích-chi ấy nhờ nhân duyên phước báo gì mà được có mùi thơm chiên-đàn tỏa ra từ nơi thân thể như vậy?.
Phật nói với chư tỳ-kheo:
– Các ông nên chú ý lắng nghe, ta sẽ vì các ông mà phân biệt giảng nói.
Này chư tỳ-kheo! Về thuở quá khứ, cách nay vô số kiếp, nước Ba-la-nại có Phật ra đời hiệu là Ca La Ca Tôn Đà. Thuở ấy có một vị trưởng giả giàu có vô cùng, tài sản, châu báu không tính kể xiết.
Khi ấy, ông trưởng giả chẳng may mất sớm, vợ ông với đứa con trai lại chẳng ở chung nhau. Người con trai ông trưởng giả ấy rất đam mê sắc dục, gặp một cô kỹ nữ đem lòng mê mệt.
Cô đòi hỏi phải bỏ ra trăm lượng vàng thì cô mới tiếp một đêm. Cứ như vậy qua nhiều năm thì tài sản cạn kiệt hết. Ngày kia không còn đủ vàng cho cô nữa, cô không chịu tiếp.
Người con ông trưởng giả mới tha thiết khẩn cầu, chỉ xin được gần cô một đêm nữa thôi. Cô kỹ nữ ấy nói rằng:
– Nếu anh có thể kiếm được một bông hoa thật đẹp mà mang đến cho tôi, thì tôi chịu tiếp anh một đêm.
Khi ấy, người con ông trưởng giả mới suy nghĩ rằng:
“ Nay tài sản ta chẳng còn chi, đến tiền mua một cành hoa cũng không có nữa, lấy chi mà mang cho cô ấy. Nay trong tháp của nhà vua chắc chắn là có hoa đẹp, hay là ta vào đó lấy trộm một cành”
Nghĩ rồi làm liền.
Nơi tháp của nhà vua lại có một người giữ, chẳng thể nào vào nơi cửa trước được. Người con ông trưởng giả liền lẻn theo lối sau, ẩn mình chờ khi thuận tiện thì đột nhập được vào trong tháp, mới trộm lấy một cành hoa.
Được hoa rồi mang đến chỗ cô kỹ nữ, cô liền tiếp một đêm. Ngờ đâu đến sáng hôm sau, người con ông trưởng giả thân thể bỗng nổi lên rất nhiều ung nhọt, đau nhức, khổ não không thể nói hết. Khi ấy mời các vị danh y đến xem bệnh liệu trị, đều nói rằng phải dùng loại chiên-đàn thơm quý mà tán bột rắc lên những chỗ ung nhọt ấy, mới có thể khỏi.
Người con ông trưởng giả tự nghĩ: “Nay ta chẳng còn tiền bạc chi, lấy gì mua bột chiên-đàn quý ấy?”
Liền cố vét bán hết nhà cửa đất đai, được sáu trăm ngàn đồng tiền vàng, mang đi mua được sáu lượng bột chiên-đàn thơm.
Khi ấy, ông suy nghĩ rồi không chịu trị bệnh nữa, nói với lương y rằng:
– Nay bệnh của tôi thật ra là bệnh trong tâm, nếu chỉ trị ngoài thân thể làm sao dứt được?
Nói lời ấy xong, liền vào trong một ngôi tháp Phật, phát lời nguyện lớn rằng:
– Đức Như Lai ngày xưa tu đủ các hạnh khổ, thệ nguyện độ hết chúng sanh trong chốn khổ ách. Nay thân thể này của con đọa vào chổ khổ não không cùng, nguyện đức Thế Tôn đại từ lân mẫn cứu cho khỏi nạn.
Phát lời nguyện như thế rồi, liền lấy số bột chiên-đàn ra hai lượng, rắc lên cúng dường tháp, hai lượng mang đến cho vua, đền cho cành hoa đã trộm, hai lượng chí tâm cúng dường Phật, cầu xin sám hối.
Ngay khi ấy, ung nhọt tự nhiên dứt trừ, trong thân thể các lỗ chân lông đều xuất ra mùi hương thơm chiên-đàn. Nghe được mùi hương ấy, lòng vui không kể xiết.
Từ khi phát nguyện và cúng dường như thế về sau, nhờ công đức ấy mà chẳng đọa các nẻo dữ, lại khi sinh ra trong cõi trời, cõi người, mỗi nơi đi qua đều nảy sinh hoa sen xinh đẹp, từ trong lỗ chân lông lại tỏa ra mùi thơm dễ chịu.
Này chư tỳ kheo! Người con ông trưởng giả ngày trước rắc bột chiên-đàn cúng dường trong tháp Phật, về sau chính là vị Bích-chi Phật thờ trong ngôi tháp cổ đó.
Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.