SỰ VƯỢT TRỘI CỦA PHẬT GIÁO SO VỚI KHOA HỌC

2
1644

Đem sự thật đến cho nhân loại – đó chính là điểm chung của Phật giáo và khoa học. Vì sự thật là một thể thống nhất, nên khi cùng nói về nó, Phật giáo và khoa học sẽ có những điểm giao thoa, ăn khớp với nhau ở rất nhiều lĩnh vực.

Ví dụ như từ thế kỷ 16 trở về trước, đa số nhân loại không biết gì về những sinh vật không thể nhìn thấy vì chúng quá nhỏ, đó là vi khuẩn, vi rút. Đến tận thập niên 1670, Antonie Van Leeuwenhoek, nhà khoa học và thương nhân người Hà Lan, đã cải tiến kính hiển vi và phát hiện ra vi khuẩn. Đến khi đó, khoa học mới biết đến những sinh vật nhỏ bé vô cùng mắt thường không nhìn thấy, gây kinh ngạc cho toàn nhân loại, và đây được coi là một khám phá vĩ đại của loài người.

Thế nhưng từ trước đó hàng ngàn năm, Đức Phật đã miêu tả về những sinh vật nhỏ bé đó. Thủa đó, khi Đức Phật trông thấy các đệ tử dùng gáo múc nước sạch trong chum để uống, Phật dạy: “Các ông phải niệm chú trước khi uống nước ấy, vì trong nước đó có nhiều sinh vật rất nhỏ bé”.

Thời đó chưa có kính hiển vi, người ta chỉ có thể tin Phật mà làm theo chứ không thể nhìn thấy vi khuẩn. Nhưng với công nghệ hiện nay thì nhân loại đã nhìn thấy được, và điều Phật nói đã được công nghệ khoa học chứng thực.

Về thiên văn vũ trụ, trước thế kỷ 18, nhân loại chỉ biết đến những ngôi sao với số lượng có hạn có thể quan sát bằng mắt thường. Mãi đến sau thế kỉ 18, với sự phát triển của kính viễn vọng hiện đại, khoa học dần mới biết đến các thiên hà cách xa Trái Đất không thể quan sát được bằng mắt thường. Các nhà khoa học đã kinh ngạc vì số lượng của các thiên hà ấy là rất khổng lồ, nhiều hơn số cát trong sông trong biển. Mỗi thiên hà lại chứa cực kì – cực kì nhiều hành tinh, ngôi sao. Mỗi mỗi chúng đều đang không ngừng được hình thành, tồn tại rồi diệt mất.

Còn Đức Phật, ngài không cần kính viễn vọng, bằng Phật nhãn siêu việt Ngài vẫn biết, và thường xuyên miêu tả trong kinh điển về các “tam thiên đại thiên thế giới” khác nhau trong vũ trụ, nhiều hơn số cát trong sông Hằng, vô biên vô lượng (“tam thiên đại thiên thế giới” là một đơn vị thiên văn trong Phật giáo, tương đương với một thiên hà)

Có lần đức Phật cùng các thầy Tỳ-kheo đi vào rừng, nhìn thấy những lá cây rơi lả tả, những lá vàng úa sắp lìa cành, đồng thời có những chồi non vừa nẩy lộc và những mầm vừa nhú khỏi vỏ cây, Ngài dạy các đệ tử: “Các thế giới đang hoại, sắp hoại và đang thành, sắp thành, cũng như lá cây trong rừng đang rụng, sắp rụng và đang nẩy chồi, sắp nẩy chồi.” 

Rất nhiều những tri thức vượt thời đại như thế đã khiến Albert Einstein, nhà khoa học lỗi lạc nhất thế kỉ XX tò mò và bỏ công nghiên cứu về giáo lý đạo Phật. Càng nghiên cứu thì ông lại càng thấy bất ngờ vì những điều Đức Phật dạy, không những chính xác, mà còn bỏ xa hiểu biết hạn chế của khoa học. Và ông – đại diện không thể uy tín hơn cho giới khoa học, phải thừa nhận rằng:

“Nếu có một tôn giáo nào đáp ứng được các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để theo xu hướng của khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học.”

Khoa học và Phật giáo

Vậy thì cái phần mà Einstein nói là vượt qua cả khoa học ấy là những gì ? Rất nhiều, với trí óc hạn hẹp của tôi thì chỉ có thể nhìn ra được vài điểm.

Thứ nhất, Đức Phật biết mọi sự thật, mọi quy luật của vũ trụ này, nhưng Ngài chỉ chọn lọc dạy những điều mang đến an vui, hạnh phúc cho chúng sinh. Thậm chí những kiến thức thừa, Ngài cũng cắt bỏ tránh làm đệ tử phân tâm, mất thời gian mà chẳng thu được lợi ích đáng kể.

Trong kinh Tạp A-hàm có viết:

” …Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng đại chúng đi đến rừng Thân Thứ, rồi ngồi dưới bóng cây. Khi ấy, Đức Thế Tôn tay bốc một nắm lá cây, hỏi các Tỳ-kheo:

– Lá cây trong nắm tay này nhiều hay lá cây trong rừng nhiều?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn, lá cây trong nắm tay Phật rất ít, còn lá cây trong rừng thì nhiều vô lượng, gấp trăm, ngàn, vạn, triệu lần cho đến tính toán thí dụ cũng không thể so sánh.

– Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, Ta thành Đẳng Chánh Giác, những pháp mà Ta đã tự thấy, rồi tuyên thuyết cho mọi người như lá cây trong tay. Vì sao? Vì pháp này có lợi ích cho nghĩa, có ích lợi cho pháp, ích lợi cho Phạm hạnh, minh tuệ chánh giác, hướng thẳng Niết Bàn.

Cũng nhiều như lá cây trong rừng lớn, Chánh pháp mà Ta tự mình chứng tri, không được Ta nói ra, cũng nhiều như thế. Vì sao?

Vì những pháp ấy không lợi ích cho nghĩa, không ích lợi cho pháp, không ích lợi cho Phạm hạnh, minh tuệ chánh giác, hướng thẳng Niết-bàn.”

Còn các nhà khoa học thì khác, họ nghiên cứu, khám phá, và sáng chế ra đủ thứ, đủ mọi lĩnh vực theo đam mê từng người, hoặc theo đơn đặt hàng của các doanh nhân, của nhà nước, các tổ chức khác nhau…

Còn việc định hướng tương lai cho nhân loại, liệu những công trình nghiên cứu của họ sẽ tác động như thế nào đến con người, có lợi hay có hại, lợi đến đâu và hại đến đâu ? Cái nào nhiều hơn ? Những cái đó… rất tiếc, không nằm trong mối quan tâm của đại đa số các nhà khoa học.

Các nhà khoa học có thể điều chế ra các liều thuốc cứu người, đồng thời cũng sẵn sàng chế ra trăm nghìn thứ thuốc độc, súng ống, bom đạn để giết người cho thật hiệu quả.

Tất nhiên, không thể vơ đũa cả nắm. Tôi tin rằng trong cộng đồng giới khoa học, sẽ vẫn luôn có những vị không chỉ giỏi chuyên môn, mà đồng thời cũng có lương tri, có tấm lòng nhân ái, vô tư cống hiến vì lợi ích nhân loại.

Tuy nhiên, chúng ta cần phải hiểu rằng, thế giới này từ xưa đến nay luôn chịu áp lực của những thế lực chính trị, họ là những ông vua nắm trong tay quân đội và quyền lực, họ là những tập đoàn tài phiệt nắm trong tay tiền bạc và thế lực, thậm chí, còn có cả những thế lực ngầm không ai biết là ai, âm thầm sắp xếp trật tự thế giới. Đối với họ, bất cứ thứ gì đều có thể biến thành công cụ phục vụ cho mục đích của họ.

Vậy điều gì ngăn cản họ bỏ tiền ra thuê, hoặc dí họng súng vào bắt những nhà khoa học làm việc cho mình ? Điều gì buộc họ không đem các thành tựu của khoa học phục vụ những mục đích đen tối ? Không gì cả ! Cho dù ban đầu các nhà khoa học nghiên cứu, sáng chế để phục vụ cho một mục đích tốt, thì cuối cùng vẫn bị lợi dụng biến thành công cụ trong tay những thế lực đen tối.

Vậy nên lịch sử thế giới mới trở thành một bức tranh ám màu thuốc súng trên nền đỏ của máu như chúng ta đã thấy.

Vậy tại sao điều tương tự không xảy ra với giáo lý của Đức Phật ?

Đó là vì Đức Phật chỉ tập trung dạy những phương pháp điều phục các phần xấu, phần bất thiện trong con người, từ đó giúp cho mỗi người nâng cấp bản thân, thăng tiến tâm linh, trí tuệ, đạt được những an vui, những năng lực vi diệu chính ngay bên trong thân tâm mỗi người, mà không cần đến các vật dụng hay công cụ bên ngoài.

Ai không chịu tu dưỡng điều phục phần xấu trong mình, thì cũng không thể tiến lên cảnh giới viên mãn. Đó là một bộ khóa thông minh, tránh để những năng lực mạnh mẽ rơi vào tay những kẻ bất thiện.

Ngoài ra, Đức Phật cũng biết trước sẽ có những thế lực muốn thao túng Phật giáo cho những mưu đồ chính trị, nên Ngài đã có những thiết lập vô cùng trí tuệ và tinh tế, để hạn chế tối đa việc Phật giáo bị biến thành công cụ của kẻ xấu.

Ví dụ như, trước khi nhập Niết Bàn, Đức Phật thuyết một bộ kinh tên Đại Bát Niết Bàn, trong đó có chi tiết, các đệ tử hỏi ngài rằng, sau này ai sẽ là người kế vị, thay Đức Phật lãnh đạo Phật giáo. Đức Phật trả lời rằng: “Hãy lấy giới luật làm thầy“. Nghĩa là không đặt quyền thống lĩnh Phật giáo vào tay bất kì người nào, xóa bỏ “chiếc ngai quyền lực” ra khỏi đạo Phật, để cho tất cả đệ tử nương tựa vào chính bản tâm tu hành, nghiêm trì giới luật của mình.

Ngoài ra, Đức Phật còn căn dặn một điều mấu chốt khác : “Y pháp bất y nhân” – nghĩa là nương theo “giáo pháp” chứ không nương theo “người nói giáo pháp”. Vì rằng chân lý là hoàn hảo, nhưng con người thì không thể hoàn hảo. Rao giảng đạo lý thì dễ, mà thực hành đúng theo đạo lý thì lại khó hơn nhiều.

Vậy nên Phật dạy cho đệ tử muôn đời sau của mình, cần tách bạch ra làm hai, “giáo pháp” khác, “người nói pháp” khác. Cần đặt tín nhiệm và tôn chỉ tu hành vào “giáo pháp”, chứ không phải “người nói pháp”, vì họ có thể là người gương mẫu, thực hành đúng pháp, xong, lại cũng có thể là người nói được làm không được.

Dù sao, các đệ tử đời sau của Phật, dù là cao tăng, danh sư nổi tiếng, cũng vẫn không phải một vị thánh trí tuệ hoàn hảo như Đức Phật, huống chi sẽ có nhiều người do bẩm sinh giỏi thuyết pháp, thuyết phục được nhiều tín đồ, nhưng kì thực phẩm hạnh, trí tuệ không đạt yêu cầu, đâu thể chắc chắn.

Như thế, đệ tử Phật chân chính làm đúng lời Phật căn dặn, chỉ dựa vào giới luật Đức Phật đã ban hành, dựa vào kinh điển, giáo lý Đức Phật đã dạy mà tu hành, “tự mình thắp đuốc mà đi”, chứ không phải chịu quyền quản lý của ai.

Thành ra, các thế lực muốn mua chuộc hay uy hiếp người quyền lực nhất đạo Phật nhằm thao túng toàn bộ tín đồ Phật giáo là điều không thể, vì chẳng có ai nắm quyền lực như vậy cả. Và Phật Pháp vẫn trường tồn một bản sắc thánh thiện, an nhiên trước mọi biến cố đen tối của dòng lịch sử.

(Quang Tử)

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
2 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Năng
Khách
Năng
1 năm trước

Ngòi bút của anh có thể vẽ lên bức tường thành kiên cố ngăn cản vô minh tràn vào , có thể làm ngã nghiêng những cố chấp của người mê , đao kiếm phục thân còn ngòi bút khi đã được lấy đạo lý làm nền tảng thì khiên tâm và thân đều phục!!! Văn anh hay như vậy và còn dùng nó rao truyền đạo lý , như đem nước đến cho ng khát , đem ánh sáng vào đêm đen , đem đi cố chấp và những điều tin hiểu sai lầm của nhiều người thật là lành lắm thay!!! Chúc anh Quang Tử biện tài sẽ trở nên vô ngại để đưa pháp âm vang dội khắp nơi ạ! E cảm ơn a!

Lần cuối chỉnh sửa 1 năm trước bởi Năng